LUẬT MA HA TĂNG KỲ
THỂ THỨC THỌ CỤ TÚC.
1. Tự thọ Cụ túc:
Khi Thế Tôn ngồi dưới cội bồ đề, tâm sở cuối cùng hoát nhiên đại ngộ, tự giác diệu chứng, như trong Diên Kinh đã nói rõ. Đó gọi là Tự cụ túc.
2. Thiện lai thọ Cụ túc:
Khi Phật ở thành Vương Xá trong vườn trúc Ca-lan-đà, Ngài nói với các Tỉ-kheo: “Như Lai độ đủ mọi hạng người, nào Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Các Thầy cũng nên bắt chước Như Lai mà hóa độ rộng rãi mọi người”. Khi các Tỉ-kheo nghe Thế Tôn dạy như vậy bèn du hành sang các nước, hễ thấy có thiện nam tử nào cầu xin xuất gia, thì các thầy cũng bắt chước đức Như Lai, gọi: “Thiện lai Tỉ-kheo”, để độ người xuất gia. Nhưng về oai nghi đi đứng, nhìn bên trái bên phải, khoác y cầm bát, đều không đúng pháp, nên bị người đời chê cười rằng: “Đức Thế Tôn độ Thiện lai Tỉ-kheo, thì oai nghi đi đứng, nhìn bên trái bên phải, khoác y cầm bát, tất cả đều đúng pháp. Các Tỉ-kheo độ người cũng gọi là Thiện lai, nhưng oai nghi đi đứng, nhìn bên trái bên phải, khoác y cầm bát, đều không đúng pháp”.
Khi nghe nói như thế, tôn giả Xá-lợi-phất liền trải tòa ngồi kiết già tại nơi thanh vắng, suy nghĩ như sau: “Cũng đều là thiện lai cả mà vì sao đức Thế Tôn độ Thiện lai Tỉ-kheo thì tất cả đều đúng pháp, còn các Tỉ-kheo độ Thiện lai Tỉ-kheo thì đều không đúng pháp? Vậy làm thế nào để cho các Tỉ-kheo độ người khéo thọ giới Cụ túc, tất cả đều đúng pháp, cùng một giới, một mục đích, một trú xứ, một cách ẩm thực, một học xứ, một giáo thuyết?”. Suy nghĩ thế rồi, vào buổi xế, Xá-lợi-phất xuất định, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi sang một bên, bạch với Phật:
—Bạch Thế Tôn, vừa rồi ở nơi thanh vắng con suy nghĩ như sau: “Cũng đều gọi là Thiện lai mà vì sao đức Thế Tôn độ người đều đúng pháp, còn các Tỉ-kheo độ người thì đều không đúng pháp? Vậy làm thế nào để các Tỉ-kheo độ người khéo thọ giới Cụ túc, đều đúng pháp, cùng một giới, một mục đích, một trú xứ, một cách ăn uống, một học xứ và một giáo thuyết? Kính xin Thế Tôn giải thích đầy đủ giùm con.
—Như Lai độ nhóm A Nhã Kiều Trần Như năm người Thiện lai xuất gia, khéo thọ giới Cụ túc, cùng một giới, một mục đích, một trú xứ, một cách ăn uống, một học xứ và một giáo thuyết; kế đến độ ba mươi người Mãn từ tử; kế đến độ Thiện Thắng tử ở thành Ba-la-nại; kế đến độ nhóm Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp năm trăm người; kế đến độ Na Đề Ca Diếp ba trăm người; kế đến độ Già Gia Ca Diếp hai trăm người; kế đến độ Ưu Ba Tư Na hai trăm năm mươi người; kế đến độ ông và Đại Mục Liên mỗi nhóm hai trăm năm mươi người; kế đến độ Ma-ha-ca-diếp, Xiển Đà, Ca-lưu-đà-di, Ưu-ba-li; kế đến độ con dòng họ Thích năm trăm người; kế đến độ Bạt Cừ Ma Đế năm trăm người; kế đến độ bọn người trộm cướp năm trăm người; kế đến độ con trưởng giả Thiện lai. Đó là những Tỉ-kheo mà Như Lai đã độ họ xuất gia, khéo thọ giới cụ túc, cùng một giới, cùng một mục đích, cùng một trú xứ, cùng một cách ăn uống, cùng một học xứ và cùng một giáo thuyết. Này Xá-lợi-phất, những người mà các Tỉ-kheo hóa độ cũng gọi là khéo xuất gia, khéo thọ Cụ túc, cho đến cùng một giáo thuyết; đó gọi là Thiện lai thọ Cụ túc.
3. Thập chúng thọ Cụ túc:
Phật nói với Xá-lợi-phất: “Từ nay Ta chế định pháp thọ cụ túc, có mười vị giới sư hòa hợp, một lần bạch, ba lần yết-ma, không có ai ngăn cản, đó gọi là khéo thọ cụ túc. Người muốn thọ giới Cụ túc ban đầu vào giữa chúng Tăng, trật vai áo bên phải, cúi đầu đảnh lễ dưới chân chư Tăng, trước hết cầu Hòa Thượng, quỳ gối sát dưới chân, nói như sau: “Con đến cầu xin Ngài làm Hòa Thượng, Ngài hãy vì con làm Hòa Thượng, cho con thọ cụ túc”. (nói ba lần như vậy). Rồi Hòa Thượng nên khích lệ để giới tử sinh tâm hoan hỉ. Đoạn, giới tử đáp: “Con xin cúi đầu vâng giữ”. Trước hết Hòa Thượng dạy giới tử tìm y bát, dạy cầu tăng chúng, dạy cầu giới sư, dạy cầu xin chỗ thanh vắng. Rồi Tăng họp, sai người làm Giáo Thọ. Thầy yết-ma hỏi: “Ai có thể đem mỗ giáp nầy đến chỗ thanh vắng để dạy bảo?”. Vị giáo Thọ đáp: “Tôi có thể ”. Thầy yết-ma lại nói:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp xin thọ cụ túc. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay đồng ý để mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp, còn mỗ giáp kia có thể dạy bảo giới tử ở chỗ thanh vắng.
Vì Tăng đã đồng ý nên im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Thế rồi, Thầy Giáo Thọ nên đem giới tử đến chỗ cách chúng Tăng không gần, không xa, rồi dạy sơ lược, hoặc đầy đủ. Dạy sơ lược thì như sau: “Lát nữa đây Tăng sẽ hỏi, nếu điều gì có thì ngươi nói là có, điều gì không thì ngươi nói là không”. Dạy đầy đủ thì như cách vấn đáp giữa Tăng sau đây. Thầy giáo Thọ vào giữa Tăng, bạch: “Tôi đã hỏi mỗ giáp (giới tử) xong, y tự nói mình thanh tịnh, không bị các già nạn”. Thầy yết-ma nên nói:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp xin thọ cụ túc, mỗ giáp đã dạy bảo ở chỗ thanh vắng xong. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng bằng lòng để mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp, thì cho phép mỗ giáp vào giữa Tăng.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp, nay Tăng bằng lòng cho mỗ giáp vào giữa Tăng.
Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc nầy là như thế.
Người muốn thọ giới Cụ túc phải vào giữa chúng Tăng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân của chư Tăng, rồi đến trước giới sư quỳ gối chấp tay, giới sư trao cho y bát, dạy nói như sau: “Đây là bát của con, tùy theo nhu cầu mà thọ dụng, là vật dùng để khất thực, nay con xin thọ trì.(nói ba lần như vậy). Đây là y Tăng-già-lê, đây là y Uất-đa-la-tăng, đây là y An-đà-hội, đó là ba y của con. Ba y nầy con nguyện Thọ trì không khi nào ngủ rời khỏi chúng”. (nói như vậy ba lần).
Thầy yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp thọ cụ túc, mỗ giáp đã hỏi han dạy bảo ở chỗ thanh vắng xong. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng bằng lòng để mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp. Mỗ giáp muốn theo Tăng xin thọ cụ túc.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp. Mỗ giáp muốn theo Tăng xin Thọ cụ túc.
Vì Tăng bằng lòng nên im lặng; tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Thế rồi, giới sư dạy giới tử cầu thính như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Con là mỗ giáp theo Hòa Thượng mỗ giáp thọ cụ túc. A-xà-lê mỗ giáp đã hỏi han chỉ bảo con ở chỗ thanh vắng xong.
Con là mỗ giáp, Hòa Thượng của con là mỗ giáp, nay con theo Tăng xin thọ cụ túc. Kính mong Tăng cho con thọ Cụ túc. Xin thương xót con . (nói như vậy ba lần).
Thầy yết-ma nói với chư Tăng:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo Mỗ giáp thọ cụ túc. Mỗ giáp A-xà-lê đã hỏi han dạy dỗ y ở chỗ thanh vắng xong. Nay y theo Tăng xin thọ cụ túc. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay bằng lòng để mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp. Mỗ giáp muốn hỏi già nạn ở giữa chúng Tăng.
Xin các đại đức lắng nghe. Mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp. Mỗ giáp muốn hỏi già nạn ở giữa chúng Tăng.
Vì Tăng bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Đoạn, Thầy yết-ma nói với giới tử:
—“Thiện nam tử hãy lắng nghe. Giờ đây là lúc phải chí thành, là lúc phải nói thật, ở trước chư thiên, thế gian, Thiên ma, các bậc phạm hạnh Sa-môn, Bà-la-môn, người đời, A-tu-la, nếu không nói thật tức là lừa dối các vị ấy. Đồng thời cũng là lừa dối đối với chúng Thanh Văn của đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đó là tội rất nặng. Nay ta hỏi ngươi ở giữa chúng Tăng, điều gì có thì nói có, điều gì không thì nói không:
—Cha mẹ đã cho phép ngươi chưa?
—Ngươi đã cầu xin Hòa Thượng chưa?
—Ba y và bát đã đủ chưa?
—Ngươi có phải là trang nam tử không?
—Đã đủ hai mươi tuổi chưa?
—Ngươi không phải là loài phi nhân đấy chứ?
—Ngươi không phải là kẻ bất năng nam (lại cái) đấy chứ?
—Tên của ngươi là gì?
—(đáp: tên là mỗ giáp).
—Hòa Thượng của ngươi tên là gì?
(đáp: tên là mỗ giáp).
—Ngươi không phá hoại tịnh hạnh của Tỉ-kheo-ni đấy chứ?
—Ngươi không phải là kẻ trộm pháp đấy chứ?
—Ngươi không phải là kẻ đang đào thoát đấy chứ?
—Ngươi không phải là kẻ tự ý xuất gia đấy chứ?
—Ngươi không giết hại cha mẹ đấy chứ?
—Ngươi không giết hại A-la-hán đấy chứ?
—Ngươi không phá hòa hợp Tăng đấy chứ?
—Ngươi không có ác tâm làm cho thân Phật ra máu đấy chứ? (Mặc dù Phật Niết-bàn đã lâu, nhưng ở đây căn cứ theo văn xưa mà hỏi).
—Trước đây ngươi đã từng thọ Cụ túc chưa?
(Nếu đáp đã từng thọ, thì hỏi tiếp)
—Ngươi không phạm bốn giới Ba-la-di đấy chứ?
(Nếu đáp đã phạm, thì nên bảo đi ra, không được thọ Cụ túc. Nếu đáp không phạm thì lần lượt hỏi tiếp mười ba giới Tăng-tàn, hỏi từng giới một xem có phạm hay không. Nếu đáp phạm, thì hỏi khi thọ Cụ túc xong, y theo pháp sám hối các tội ấy được không? Nếu đáp được, thì hỏi tiếp )
—Trước đây đã từng xả giới chưa?
(Đáp: đã xả).
—Ngươi không phải là đầy tớ đấy chứ?
—Ngươi không phải là con nuôi đấy chứ?
—Ngươi không mắc nợ người khác đấy chứ?
—Ngươi không phải là công chức đấy chứ?
—Ngươi không âm mưu làm chính trị đấy chứ?
—Ngươi không phải là người có cả hai căn đấy chứ?
—Ngươi có phải là bậc trượng phu không?
—Ngươi không có các chứng bệnh: Ghẻ lở, bỏng da, mụt nhọt, ung thư, bệnh trĩ, đái tháo, vàng da, sốt rét, suyễn, bệnh gầy còm, điên cuồng, bệnh nhiệt, phong thũng, thũng nước, bụng phù thũng, nói chung các chứng bệnh như thế và những bệnh khác nữa trên thân ngươi không có đấy chứ?
(Đáp: không có).
Hỏi xong, Thầy yết-ma lại nói:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp thọ Cụ túc. Mỗ giáp đã hỏi han dạy bảo ở chỗ thanh vắng xong. Mỗ giáp đã theo Tăng xin thọ Cụ túc. Cha mẹ đã cho phép, đã cầu thỉnh Hòa Thượng, ba y và bát đã đầy đủ. Trang nam tử nầy đã đủ hai mươi tuổi, tự nói mình thanh tịnh, không có các già nạn. Nếu thời gian của Tăng đã đến, nay Tăng cho mỗ giáp thọ Cụ túc. Hòa Thượng là mỗ giáp. (một lần bạch, ba lần yết-ma, cho đến) Tăng bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo chưa có tuổi hạ, mặc y sạch mới nhuộm đẹp đẽ, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ thăm hỏi. Thế rồi, sau đó vào một dịp khác, Tỉ-kheo nầy mặc y rách rưới dơ bẩn, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ thăm hỏi. Phật biết nhưng vẫn hỏi:
—Tỉ-kheo, trước đây ông mặc y sạch sẽ mới nhuộm đẹp đẽ, đến chỗ Ta, nay vì sao mặc y rách rưới như thế?
—Bạch Thế Tôn, đây là chiếc y ngày trước, nhưng vì đã lâu năm nên bị hư rách.
—Ông không thể vá lại được sao?
—Bạch Thế Tôn, con có thể vá, nhưng không lấy gì để vá.
—Ông không thể đi nhặt những y phục cũ rách tại những con đường hẻm đem về giặt, nhuộm sạch rồi vá sao?
—Bạch Thế Tôn, y phấn tảo bẩn thỉu, con rất nhờm gớm không thể dùng được.
—Này Tỉ-kheo, thôi thôi đi, đừng nói như thế. Y phấn tảo ít phiền toái, dễ tìm, nên giặt cho sạch, không có các lỗi, họp với pháp phục của Sa-môn, dựa vào đó mà sống đời xuất gia.
Thế rồi, Thế Tôn đi đến chỗ có đông Tỉ-kheo, trải tọa cụ ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc kể trên. Đoạn, Phật nói với các Tỉ-kheo: “Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri muốn làm lợi ích cho chúng Thanh Văn, chế ra pháp y cứ đầu tiên nầy. Nếu Thiện nam tử nào có lòng tin chân chánh, kham nhẫn được thì cho thọ Cụ túc, còn ai không kham nhẫn được thì không nên cho Thọ”.
Khi Phật an trú tại tinh xá của dòng họ Thích bên cây Ni-câu-luật, tại Ca-duy-la-vệ, vì năm sự lợi ích nên đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cứ năm hôm đi tuần tra phòng các Tỉ-kheo một lần. Năm sự lợi ích đó là:
1. Xem các đệ tử Thanh Văn có ưa thích các việc hữu vi hay không;
2. Xem họ có thích nói những điều vô ích hay không;
3. Xem họ có say mê ngủ nghỉ hay không;
4. Vì để thăm viếng những Tỉ-kheo bị bệnh;
5. Để cho những Thiện nam tử có lòng tin thấy oai nghi tề chỉnh của Như Lai mà sinh tâm hoan hỉ.
Vì năm việc đó mà Ngài đi đến phòng các Tỉ-kheo, bỗng thấy một Tỉ-kheo bị bệnh tê liệt vàng vọt gầy ốm, Phật biết nhưng vẫn hỏi:
—Tỉ-kheo, khí lực của ông có điều hòa không?
—Bạch Thế Tôn, con bị bệnh đói khát, khí lực không đầy đủ.
—Ông không thể đi khất thực sao?
—Bạch Thế Tôn, ở nước Câu-tát-la nầy chỉ có thể xin đồ ăn thừa của người ta, chứ không thể xin đồ ăn còn nguyên vẹn, mà thức ăn thừa thì dơ bẩn, con không thể ăn được, cho nên mới bị gầy ốm.
—Này Tỉ-kheo, thôi thôi đi, chớ nói như thế. Xin đồ ăn thừa ít phiền toái, dễ được, hợp pháp, không có lỗi lầm, nhờ đó mà đời sống xuất gia được dễ dàng.
Thế rồi, Thế Tôn đi đến chỗ có nhiều Tỉ-kheo, trải tọa cụ, ngồi trình bày lại đầy đủ việc kể trên với các Tỉ-kheo. Đoạn, Phật nói với các Tỉ-kheo: “Từ hôm nay, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì muốn lợi ích cho chúng Thanh Văn, chính thức chế định pháp y cứ thứ hai nầy. Nếu Thiện nam tử nào có lòng tin chân chính kham nhẫn được thì cho thọ Cụ túc, còn ai không thể kham nhẫn được thì không nên cho thọ ”.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cứ năm hôm đi tuần tra phòng các Tỉ-kheo một lần, thấy một Tỉ-kheo ngồi dưới gốc cây, nói như sau: “Sa-môn xuất gia tu phạm hạnh, ngồi dưới gốc cây khổ cực, ban ngày thì bị gió lùa nắng đốt, ban đêm thì bị muỗi mòng châm chích, ta không thể chịu nổi”.
Phật liền nói với Thầy: “Im, im đi, đừng nói như thế. Ngồi dưới gốc cây ít phiền toái, dễ chịu, thanh tịnh, không có các lỗi lầm, phù hợp với phép tắc Sa-môn, đời sống xuất gia lấy đó làm chỗ nương tựa”.
Thế rồi, đức Thế Tôn đi đến chỗ đông đúc các Tỉ-kheo, trải tọa cụ ngồi, tường thuật sự việc trên với các Tỉ-kheo. Đoạn, Phật nói: “Từ hôm nay, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì muốn lợi ích cho chúng Thanh Văn, chính thức chế định pháp y cứ thứ ba nầy. Nếu Thiện nam tử nào có lòng tin chân chính, biết kham nhẫn thì cho thọ Cụ túc, còn ai không kham nhẫn được thì không nên cho Thọ”.
Khi Phật an trú tại tinh xá của dòng họ Thích, dưới cây Ni-câu-luật, tại Ca-duy-la-vệ, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cứ năm hôm đi thị sát phòng các Tỉ-kheo một lần, thấy một Tỉ-kheo đang bị bệnh tê liệt, vàng vọt gầy ốm, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
—Này Tỉ-kheo, khí lực ông có điều hòa không?
—Bạch Thế Tôn, con bị bệnh rất khổ sở, khí lực không điều hòa.
—Ông không thể uống thuốc phù hợp với bệnh, ăn thức ăn phù hợp với bệnh sao?
—Bạch Thế Tôn, con không có tiền mua thuốc, cũng không ai cúng dường, nên bị bệnh khốn khổ.
—Ông không thể uống trần khí dược sao?
—Bạch Thế Tôn, loại trần khí dược nầy do bẩn, con không uống được.
—Này Tỉ-kheo, thôi thôi đi, đừng nói như thế. Loại trần khí dược ít phiền toái, dễ tìm, sạch sẽ, không có các lỗi lầm, phù hợp với nếp sống của Sa-môn, y cứ vào đó mà sống đời sống xuất gia.
Thế rồi, Phật đi đến chỗ đông đúc các Tỉ-kheo, trải tọa cụ ngồi, tường thuật lại sự việc kể trên với các Tỉ-kheo. Đoạn, Phật dạy:
—Từ hôm nay, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri muốn làm lợi ích cho chúng Thanh Văn, chính thức chế định điều y cứ thứ tư. Nếu Thiện nam tử nào có lòng tin chân chính, biết kham nhẫn thì cho thọ Cụ túc, còn ai không kham nhẫn được thì không nên cho thọ.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có trang thanh niên Bà-la-môn ở thôn Đô Di đến cầu xin các Tỉ-kheo xuất gia, thọ Cụ túc, rồi mới Thọ bốn thứ y cứ. (Bấy giờ giới sư hỏi):
—Y phấn tảo nầy ít phiền toái, dễ được, thanh tịnh, không có các lỗi lầm, phù hợp với nếp sống Sa-môn, y cứ vào đó mà xuất gia, thọ Cụ túc, vậy ngươi có thể chấp nhận dùng nó suốt đời được không?
—Không thể kham nhẫn được.
—Vậy, vì lý do gì mà ngươi xuất gia?
—Vì con thấy Sa-môn Thích tử khoác y đẹp đẽ mảnh mai, con thích mặc loại y ấy, do thế mà xuất gia.
—Có khi nào mà tất cả các Tỉ-kheo xuất gia đều được mặc y đẹp hết như thế nầy đâu.
Rồi các Tỉ-kheo trao cho pháp y cứ thứ hai, nói:
—Xin thức ăn thừa ít phiền toái, dễ được, thanh tịnh, không có các lỗi lầm, phù hợp với nếp sống Sa-môn, y cứ vào đó mà xuất gia, thọ Cụ túc, vậy ngươi có thể kham nhẫn tuân thủ suốt đời được không?
—Con không thể kham nhẫn.
—Vậy, vì cớ gì mà ngươi xuất gia?
—Con thấy Sa-môn Thích tử ăn toàn gạo trắng lúa thơm, bánh ngọt ngon lành, con tham những thức ngon ấy cho nên xuất gia.
—Đâu có chuyện tất cả Tỉ-kheo xuất gia đều được ăn những thứ ngon lành nầy.
Rồi các Tỉ-kheo trao cho pháp y cứ thứ ba, nói:
—Ngồi dưới gốc cây ít phiền toái, dễ được, thanh tịnh, không có các lỗi lầm, phù hợp với nếp sống của Sa-môn, nương vào đó mà xuất gia, thọ Cụ túc, ngươi có thể kham nhẫn tuân thủ nếp sống nầy suốt đời được không?
—Con không thể kham nhẫn.
—Vậy, vì lý do gì mà ngươi xuất gia?
—Vì con thấy Sa-môn Thích tử ngồi tại những căn phòng lớn, những lầu gác lộng lẫy, con tham sống nơi những phòng xá nầy cho nên xuất gia.
—Có nơi nào mà tất cả Tỉ-kheo xuất gia đều được các phòng xá tốt đẹp hết như vậy đâu.
Rồi các Tỉ-kheo trao cho pháp y cứ thứ tư, nói:
—Loại trần khí dược ít phiền toái, dễ có, thanh tịnh, không có các lỗi lầm, thích hợp với nếp sống của Sa-môn, lấy đó làm chỗ y cứ để xuất gia, thọ Cụ túc, trong vấn đề nầy ngươi có thể kham nhẫn tuân thủ suốt đời được không?
—Con không thể kham nhẫn được.
—Vậy, vì lý do gì mà ngươi xuất gia?
—Vì con thấy Sa-môn Thích tử uống sữa dầu mật đường phèn và các thứ thuốc khác, con tham uống những thứ nầy cho nên xuất gia.
—Đâu có chuyện tất cả Tỉ-kheo xuất gia đều được những món thuốc ngon lành như vậy.
Thế rồi, các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền khiển trách: “Vì sao các ông cho thọ Cụ túc trước, rồi trao cho bốn sự y cứ sau? Từ nay về sau không được cho thọ Cụ túc trước, rồi trao cho bốn sự y cứ sau, mà phải trao cho bốn sự y cứ trước, xem họ có kham nhẫn được hay không, rồi mới cho thọ Cụ túc. Nếu họ nói không kham nhẫn được thì không nên cho thọ Cụ túc. Nếu cho thọ Cụ túc trước, trao cho bốn pháp y cứ sau, cũng được gọi là thọ Cụ túc, nhưng tất cả Tăng đều phạm tội Việt-tì-ni. Khi trao cho bốn pháp y cứ, trước hết phải làm yết-ma cầu thính như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp thọ Cụ túc, mỗ giáp đã hỏi han dạy bảo giới tử ở chỗ thanh vắng xong, giờ đến giữa Tăng xin thọ Cụ túc. Cha mẹ đã cho phép, đã cầu xin Hòa Thượng, ba y và bát đầy đủ, trang nam tử nầy đã đủ hai mươi tuổi, tự nói mình thanh tịnh, không có các già nạn. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng bằng lòng cho mỗ giáp làm Hòa Thượng. Mỗ giáp muốn trình bày bốn pháp y cứ ở giữa Tăng.
Chư đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp làm Hòa Thượng cho mỗ giáp, muốn nói về bốn pháp y cứ ở giữa Tăng.
Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Đoạn, Hòa Thượng truyền bốn pháp y cứ:
—Thiện nam tử hãy lắng nghe. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì muốn lợi ích cho chúng Thanh Văn, đã chính thức chế định bốn pháp y cứ nầy. Nếu Thiện nam tử có lòng tin chân chính kham nhẫn được thì mới cho thọ Cụ túc, còn không kham nhẫn được thì không cho thọ. Y phấn tảo nầy ít phiền toái, dễ được, thanh tịnh, không có các lỗi, phù hợp với nếp sống của Sa-môn, lấy đó làm chỗ nương tựa mà xuất gia thọ Cụ túc, được làm Tỉ-kheo; vậy ngươi có thể kham nhẫn thọ trì y phấn tảo nầy suốt đời được không?”.
Đáp: Được.
Vậy, nếu được các loại y như Khâm-bà-la, y điệp, y sô ma, y Câu-xá-da, y xá-na, y ma, y Khâu mâu đề (thì ngươi hãy thọ trì).
—Xin thức ăn dư thừa ít phiền toái, dễ được, thanh tịnh, không có các lỗi, phù hợp với nếp sống Sa-môn, nương vào đây mà xuất gia, thọ Cụ túc, được làm Tỉ-kheo, vậy ngươi có thể kham nhẫn khất thực sống suốt đời được không?
Đáp: Được.
Vậy, nếu vào các ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm trong tháng, những dịp thuyết giới, dịp bốc thăm, dịp Thí chủ mời, được các bữa ăn (thì ngươi hãy thọ dụng).
—Ngồi dưới gốc cây ít phiền toái, dễ thanh tịnh, không có các lỗi, phù hợp với nếp sống Sa-môn, nương vào đây mà xuất gia, thọ Cụ túc, được làm Tỉ-kheo, vậy ngươi có thể kham nhẫn tuân hành suốt đời ngồi dưới gốc cây được không?
Đáp: được.
Tuy nhiên, khi được những ngôi nhà lớn, những ngôi nhà có lầu gác, ngôi nhà có cửa lớn, ngôi nhà trong hang (thì ngươi có thể sử dụng).
—Loại trần khí dược ít phiền toái, dễõ được, thanh tịnh, không có các lỗi, phù hợp với nếp sống Sa-môn, nương vào đây mà xuất gia, thọ Cụ túc, được làm Tỉ-kheo, ngươi có thể kham nhẫn uống trần khí dược suốt đời được không?
Đáp: Được.
Vậy, nếu được sữa tươi, sữa chua, dầu, mật, đường phèn và mỡ ( thì ngươi hãy thọ dụng).
Tóm lại, ngươi phải tùy thuận học tập tuân thủ bốn Thánh chủng nầy (bốn pháp y cứ).
Thế rồi, Thầy yết-ma nói:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp thọ Cụ túc, mỗ giáp đã chất vấn dạy bảo (giới tử) ở chỗ thanh vắng xong. Giờ đây mỗ giáp theo Tăng xin thọ Cụ túc. Cha mẹ đã cho phép, đã cầu xin Hòa Thượng, ba y và bát đầy đủ. Trang nam tử nầy đã đủ hai mươi tuổi, tự nói mình thanh tịnh, không có các già nạn, đã kham nhẫn bốn pháp y cứ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho mỗ giáp thọ Cụ túc. Hòa Thượng là mỗ giáp . Đây là lời tác bạch.
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp theo mỗ giáp thọ Cụ túc, mỗ giáp đã chất vấn dạy bảo ở chỗ thanh vắng xong. Giờ đây, mỗ giáp theo Tăng xin thọ Cụ túc. Cha mẹ đã cho phép, đã cầu xin Hòa Thượng, ba y và bát đầy đủ. Trang nam tử nầy đã đủ hai mươi tuổi, tự nói mình thanh tịnh, không có các già nạn, đã kham nhẫn bốn pháp y cứ. Nay Tăng cho mỗ giáp thọ Cụ túc, Hòa Thượng là mỗ giáp. Các đại đức nào bằng lòng việc Tăng cho mỗ giáp thọ Cụ túc, Hòa Thượng là mỗ giáp thì im lặng. Ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết ma lần thứ nhất. Vậy có thành tựu không ? (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho mỗ giáp thọ Cụ túc, Hòa Thượng là mỗ giáp. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
(Đoạn, quay sang nói với giới tử):
—“Này Thiện nam tử, ngươi đã thọ Cụ túc, một sự thọ Cụ túc tốt đẹp, một lần bạch, ba lần yết-ma, không có các già nạn, chúng Tăng hòa hợp không phải là không hòa hợp, từ mười chúng (mười giới sư) hay mười chúng trở lên. Nay ngươi phải kính trọng Phật, kính trọng pháp, kính trọng Tỉ-kheo Tăng, kính trọng Hòa Thượng, kính trọng A-xà-lê. Ngươi đã may mắn gặp được, đừng để mất đi. Thân người khó được, Phật xuất thế khó gặp, nghe pháp cũng khó, chúng Tăng hòa hợp, ý nguyện thành tựu, khó có dịp đảnh lễ đấng Thích Sư Tử (Phật) và chúng Thanh Văn, ngươi đã được giới Cụ túc, như hoa vô ưu rời khỏi bùn và nước vậy, phải nương vào giới pháp mà tu tập pháp Niết-bàn vi diệu. Đó là bài tựa của giới, bốn pháp Ba la di, mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa, hai pháp Bất định, ba mươi pháp Ni-tát-kì-ba-dạ-đề, chín mươi hai pháp Ba-dạ-đề, bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni, các pháp chúng học, bảy pháp Diệt tránh, pháp tùy thuận. Nay ta dạy bảo ngươi đại khái như thế, sau nầy Hòa Thượng, A-xà-lê sẽ nói cho ngươi rộng rãi hơn.
Đó gọi là Thập chúng thọ giới”.
4. Ngũ chúng thọ Cụ túc:
Khi Phật an trú tại rừng Thi Đà nơi thành Vương Xá, lúc ấy trong thành có một cư sĩ tên là Uất Kiền, vốn dòng tôn thất, hào quí, tài sản vô lượng. Ông nghe đức Như Lai xuất hiện trong đời, đang trú tại rừng Thi Đà, lòng rất hoan hỉ phấn khởi, muốn mời Phật và chúng Tăng cúng dường trai phạn, liền cho trang hoàng nội thất, quét tước sạch sẽ. Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có một cư sĩ tên là A Na Bân Chi, vốn là bạn chí thiết của Uất Kiền, đến chơi nhà Uất Kiền, thấy ông đang bận rộn trang hoàng quét tước, liền hỏi: “Này Cư sĩ, vì sao mà chuẩn bị khẩn trương, định gả chồng, cưới vợ, mời Bà-la-môn, nhà vua hay đại thần chăng?”.
Cư sĩ đáp: “Tôi không gả con, cưới vợ, mời Bà-la-môn, nhà vua hay đại thần gì cả. Ông không nghe con của vua Bạch Tịnh xuất gia, thành Phật, hiệu là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri xuất hiện trên đời nầy sao? Hiện nay Ngài đang ở tại rừng Thi Đà. Nay tôi quét dọn trang hoàng chính là muốn mời Phật và chúng Tăng, cho nên mới khẩn trương như vậy”.
Bân Chi nghe thế lòng rất vui mừng, liền hỏi: “Tôi muốn thăm viếng đảnh lễ Ngài có được không?”.
Cư sĩ đáp: “Có thể thăm được. Đức Phật có tình thương bao la, không ai yết kiến mà không có lợi ích. Ông hãy biết lúc nào nên làm gì”. Ông ta nghe rồi, lòng tôn kính bộc phát mạnh mẽ, mong mau đến sáng. Đức Phật hiểu rõ tâm ông, liền phóng quang ngay trong đêm tối, ánh sáng chiếu khắp trong thành. Bân Chi thấy ánh sáng, tưởng là trời đã hừng đông, liền ra đi, thì cửa tự nhiên mở. Ông đi lần đến cửa thành, cửa thành cũng mở ra, khi ra khỏi thành, bỗng thấy một ngôi miếu thờ trời nằm ở ven đường. Ông muốn tới đó lễ bái trước rồi mới đến viếng Phật sau, thì khi vừa hướng đến ngôi miếu, bỗng dưng trời đất tối sầm. Ông cảm thấy hoảng sợ, tới lui đều mờ mịt, không biết đi lối nào. Lúc ấy, trên không có vị trời nói với Bân Chi: “Giờ đây chính là đúng lúc, hãy đi tới, đừng sợ”, rồi đọc kệ:
“Dùng Thất bảo trang hoàng,
Trăm cổ xe bò, ngựa,
Đem tất cả bố thí,
Kể công đức của chúng,
So một bước ông đi,
Thua một phần mười sáu.
Dùng Thất bảo trang hoàng,
Trăm voi chúa Tuyết sơn,
Rồi đem chúng bố thí,
Phước báo công đức ấy,
So một bước ông đi,
Thua một phần mười sáu.
Thân Thất bảo anh lạc,
Của trăm Thiên nữ đẹp,
Dùng chúng để bố thí,
Kể về phước báo ấy,
So một bước ông đi,
Thua một phần mười sáu”.
Lúc bấy giờ A Na Bân Chi nghe bài kệ ấy rồi, lòng sinh kính tín bội phần, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên. Phật liền thuyết pháp, dạy bảo những điều lợi ích, khiến ông hoan hỉ. Ông bèn bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, con muốn trở về thành Xá-vệ thiết lập tinh xá, để mời Phật và chúng Tăng an trú. Kính xin Thế Tôn thương xót nhận lời thỉnh cầu của con. Đồng thời xin Thế Tôn sai một Tỉ-kheo trông coi việc xây cất”. Như trong kinh Tỉ La đã nói rõ, cho đến Phật nói với Xá-lợi-phất và Mục-liên: “Các ông hãy đến đó xem xét địa hình địa thế, tùy trú xứ của Tăng mà trông coi sắp xếp, bố trí phòng ốc”.
Xá-lợi-phất và Mục-liên vâng lời Phật dạy liền đi đến đó. Khi ấy, Cư sĩ Bân Chi bèn dùng mười tám ức tiền vàng mua một khoảnh đất, mười tám ức tiền vàng làm tăng phòng, mười tám ức tiền vàng cúng dường chúng tăng, cọng tất cả là năm mươi tư ức tiền vàng. Vị cư sĩ nầy lại muốn cúng dường thêm nữa, bèn sai Phú Lâu Na vào biển tìm châu báu. Do oai thần của Phật nên bốn Đại Thiên Vương, Đế Thích và Phạm Thiên Vương hộ vệ người nầy, khiến ông đi về bảy lần, được châu báu vô số mà không gặp tai nạn gì hết.
Thế rồi, Phú Lâu Na thưa với Bân Chi: “Kính mong cư sĩ cho phép tôi xuất gia”. Cư sĩ liền chuẩn thuận, đoạn, dẫn đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên, bạch với Phật: “Người nầy muốn xuất gia, kính mong Thế Tôn thương xót tiếp độ”. Phật liền tiếp độ.
Sau khi xuất gia, ông thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn, kính xin Thế Tôn dạy bảo tóm lược cho con, con muốn đến nước Thâu-na, nương theo lời dạy ấy mà tu hành”.
Phật liền tùy thuận dạy bảo, như trong Diên Kinh đã nói rõ. Phú Lâu Na thọ giáo rồi, liền đi đến nước Thâu Na. Trong nước nầy có một Trưởng giả tên là Thát Bà, kiến tạo phòng Chiên đàn. Ở đây xin nói rõ về nhân duyên của Ức Nhĩ, cuối cùng, ông cầu xin xuất gia, và được Phú Lâu Na độ cho xuất gia, làm Sa-di cho đến bảy năm, vì ở đây chúng Tăng khó tìm, nên không được thọ Cụ túc. Sau bảy năm, Thát Bà mới làm xong phòng Chiên đàn, rồi trang trí đẹp đẽ, mời chúng Tăng nhiều nơi về thiết trai cúng dường, đoạn, đem căn phòng ấy cúng dường cho Phú Lâu Na.
Bấy giờ, nhân dịp chúng Tăng tập họp, Phú Lâu Na bèn mời mười vị Tăng tinh thông giới luật, cho Ức Nhĩ thọ Cụ túc. Thọ Cụ túc xong, Ức Nhĩ liền bạch với Hòa Thượng: “Con muốn đến Xá-vệ thăm viếng đảnh lễ đức Thế Tôn, kính xin Hòa Thượng chuẩn thuận”.
Phú Lâu Na đáp: “Tùy ý. Nhưng ông hãy nhân danh Ta thăm hỏi đức Thế Tôn và xin Ngài chấp thuận năm nguyện vọng”.
Ức Nhĩ thọ giáo rồi liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên. Phật liền nói với A-nan: “Ông hãy trải giường nệm cho Tỉ-kheo khách”.
Khi Phật bảo A-nan trải giường nệm thì phải biết là vị ấy sẽ ngủ cùng phòng với Thế Tôn. Còn khi Phật bảo tôn giả Đà-phiêu-ma-la-tử thì phải biết là vị ấy theo thứ tự mà nhận phòng. Đức Như Lai đầu hôm thuyết pháp cho chúng Thanh Văn, nửa đêm Ngài trở về phòng, hào quang thường sáng tỏ. Phật liền hỏi Tỉ-kheo khách:
—Ông có tụng kinh không?
—Có tụng, bạch Thế Tôn.
—Tụng kinh gì?
—Tụng Kinh Bát Bạt Kỳ.
—Ông hãy tụng xem.
Thầy bèn tụng nho nhỏ. Khi tụng xong, hỏi đến câu cú nghĩa lý thì thầy đều đáp đâu đó rành mạch. Phật liền ngợi khen: “Tốt lắm Tỉ-kheo! Câu cú chữ nghĩa mà ông vừa tụng đều giống y những gì trước kia Ta đã nói”. Thế rồi, Thế Tôn bèn nói kệ:
“Thánh nhân chẳng thích ác,
Người ác chẳng ưa Thánh.
Nếu thấy lỗi thế gian,
Phát tâm hướng Niết-bàn”.
Đoạn, Phật tiếp: “Lành thay, trong hàng đệ tử của Ta người thông hiểu nhanh chóng bậc nhất chính là Ức Nhĩ”. Ức Nhĩ liền đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi trình bày việc Hòa Thượng mình xin Phật năm nguyện vọng. Đức Như Lai nghe xong, sáng sớm hôm sau thức dậy, đi đến chỗ có đông Tỉ-kheo, trải tọa cụ ngồi, nói với các Tỉ-kheo: “Phú Lâu Na ở nước Thâu Na sai Ức Nhĩ đến xin Ta năm nguyện vọng. Từ nay về sau, Ta cho phép tại nước Thâu Na biên địa được thực hiện năm nguyện vọng sau đây:
1. Ở Thâu-na biên địa dân chúng thích sạch sẽ, Ta cho phép được tắm rửa hằng ngày. Còn ở đây nửa tháng mới tắm một lần.
2. Tại Thâu-na biên địa có nhiều ngói gạch đá cuội và gai gốc, Ta cho phép mang dép da hai lớp, còn ở đây chỉ được mang dép một lớp.
3. Ở Thâu-na biên địa ít có phu cụ mà có nhiều thứ da, Ta cho phép dùng da làm phu cụ, còn ở đây thì không cho.
4. Ở Thâu-na biên địa có ít vải vóc mà nhiều y phục của người chết, Ta cho phép mặc y phục của người chết và ở đây cũng cho phép mặc.
5. Ở Thâu-na biên địa có ít Tỉ-kheo, Ta cho phép năm người được truyền giới Cụ túc, còn ở đây phải đủ mười người mới được truyền giới Cụ túc. Đó là cách thọ Cụ túc tốt lành nhất, trước mười người một lần bạch, ba lần yết-ma thọ Cụ túc. Còn ở Thâu-na biên địa trước năm người, một lần bạch, ba lần yết-ma thọ Cụ túc. Đó gọi là bốn cách thọ Cụ túc.
Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả Ưu-ba-li có hai Sa-di, một người tên là Đà Bà Già, còn người kia tên là Bà-la-già. Hai Sa di nầy được nuôi từ nhỏ dần dần lớn lên, đủ hai mươi tuổi, tôn giả muốn cho thọ Cụ túc, liền suy nghĩ: “Nếu cho một người thọ trước thì người sau ắt hẳn sẽ oán hận, không hiểu cùng một Hòa Thượng, cùng một Tăng chúng, cùng một giới sư, hai người thọ giới cùng một lúc có được không?”
Suy nghĩ thế rồi, Ưu-ba-li liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi sang một bên, đem đầy đủ sự việc kể trên bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, cùng một Hòa Thượng, một giới sư, một chúng, hai người cùng thọ giới một lần có được không?”
Phật dạy: “Được. Cũng thế, hai người, ba người cùng thọ một lần cũng được, nhưng không được thọ một lần nhiều người (bốn người trở lên); đó gọi là thọ Cụ túc. Nếu một giới tử mà hai Hòa Thượng, ba Hòa Thượng, nhiều Hòa Thượng thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Không có Thầy yết-ma thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Hai người, ba người cùng với một Thầy yết-ma, còn Hòa Thượng tách riêng với một chúng để thọ, thì không gọi là thọ Cụ túc. Hai người làm yết-ma hai người, ba người làm yết-ma ba người, còn riêng Hòa Thượng cho thọ cùng một chúng, thì không thể gọi là thọ Cụ túc.
Lại nữa, nếu Hòa Thượng ở trong số mười người (Thập sư) thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu đem người muốn thọ Cụ túc tính cho đủ số mười người, đem Tỉ-kheo-ni tính cho đủ số mười người, đem người gởi dục tính cho đủ số mười người, đều không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu không xưng tên Hòa Thượng, không xưng tên giới tử, không xưng tên chúng Tăng, thì không thể gọi là thọ Cụ túc.
Nếu Hòa Thượng nói yết-ma, giới tử nói yết-ma, Tỉ-kheo-ni nói yết-ma, đều không thể gọi là thọ Cụ túc.
Nếu Hòa Thượng ở trên không trung, giới tử ở trên không trung, Tăng ở trên không trung, tất cả ở trên không, đều không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu một nửa ở dưới đất, một nửa ở trên không, cũng không thể gọi là thọ Cụ túc.
Nếu bị che chắn ngăn cách thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu một nửa ở chỗ che khuất, trung gian có vật ngăn cách thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu một nửa bị che khuất, một nửa ở chỗ khoảng trống mà đưa tay ra không chạm vào nhau, thì không thể gọi là thọ Cụ túc. Nếu tất cả đều ngồi ở chỗ trống mà đưa tay ra không chạm vào nhau, hoặc tất cả đều ngồi ở chỗ khuất, không nghe thấy nhau, đều không thể gọi là thọ Cụ túc.
Lại nữa, nếu ngủ, hoặc si ám, điên cuồng, tâm loạn, bị bệnh khổ bức bách, đều không thể gọi là thọ Cụ túc.
Lại nữa, nếu giới tử không nói, hoặc chỉ suy nghĩ, hoặc kêu lớn, đều không thể gọi là thọ Cụ túc.
Lại nữa, nếu sai người mang thư tín đến, hoặc đưa tay ra dấu, đều không thể gọi là thọ Cụ túc. Đương sự không hiện diện, không hỏi giới tử, giới tử không muốn thọ giới, làm yết-ma phi pháp, Tăng không hòa họp, tác bạch không thành tựu, yết ma không thành tựu, hoặc một trong những việc đó không thành tựu thì không thể gọi là thọ Cụ túc.
CÁC GIÀ NẠN.
Lại nữa, nếu có các Trường hợp như hủy hoại tịnh hạnh của Tỉ-kheo-ni; trú trong chúng với tâm trộm pháp; kẻ lừa đảo; phạm ngũ nghịch; sáu hạng không phải nam tử; nhỏ quá; già quá; bị chặt tay; bị chặt chân; tay chân đều bị chặt; bị cắt tai; bị cắt mũi; tai mũi đều bị cắt; hoặc mù; hoặc điếc; hoặc bị mù điếc; hoặc câm; què; hoặc bị câm què; hoặc bị đánh có sẹo; hoặc bị đóng dấu; hoặc bị rút gân; hoặc gân bị giãn; xương sống bị còng; làm quan chức; mắc nợ; bệnh; ngoại đạo; trẻ con; đầy tớ; thân thể dị dạng; hình dáng xấu xí, đều không thể gọi là thọ Cụ túc.
1. Hủy hoại tịnh hạnh của Tỉ-kheo-ni:
Khi Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy, đồng tử Ly Xa là An Bà La phá hoại tịnh hạnh đệ tử của Tỉ-kheo-ni Pháp Dự. Thế rồi, Tỉ-kheo-ni Pháp Dự bèn đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, đồng tử Ly Xa phá hoại phạm hạnh đệ tử của con”. Nói như thế rồi bèn lễ Phật mà ra đi. Khi ấy, Phật liền nói với A-nan: “Ông hãy lấy y Tăng-già-lê của Ta lại đây, để Ta đi vào thành Tì-xá-li”. A-nan bèn lấy y Tăng-già-lê đưa cho Thế Tôn. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri từ khi thành Phật đến giờ, chưa khi nào đi vào thành ấp xóm làng sau bữa ăn. Khi ấy, Thế Tôn cùng A-nan vào thành Tì-xá-li. Bấy giờ, năm trăm người Ly-xa đang tập họp tại ngôi nhà nghị luận, định bàn bạc về những việc khác, trông thấy Thế Tôn từ xa đi đến, họ liền bảo nhau: “Không hiểu đức Như Lai có việc gì mà sau bữa ăn đi vào thành?”. Thế rồi, lập tức các Ly-xa đứng dậy trải tòa ra nghênh đón Thế Tôn, quỳ gối chắp tay, bạch rằng: “Lành thay Thế Tôn, xin Thế Tôn ngồi trên tòa nầy”.
Khi ấy, Thế Tôn bèn trải tọa cụ mà ngồi, đoạn, các người Ly-xa cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi ngồi qua một bên. Phật liền nói với các Ly-xa: “Quyến thuộc của các ngươi, các ngươi phải bảo hộ, cũng như đệ tử Tỉ-kheo-ni của Ta, Ta cũng phải bảo hộ. Nếu có ai xâm phạm, hoặc muốn hay không muốn phá hoại phạm hạnh, thì theo phép tắc của Ta, suốt đời không nói chuyện, không ở chung, không ăn chung”.
Các người Ly-xa liền bạch với Phật: “Cũng như phép tắc của Thế Tôn, hễ kẻ nào phá hoại phạm hạnh thì chúng tôi không nói chuyện, không ở chung, không ăn chung. Phép tắc thế tục của chúng tôi cũng như vậy, suốt đời không nói chuyện, không ở chung, không ăn chung”.
Khi ấy, đức Thế Tôn tùy nghi thuyết pháp cho các Ly-xa, khiến họ sinh tâm hoan hỉ, rồi ra đi. Sau khi Ngài đi không bao lâu, Tỉ-kheo-ni Pháp Dự liền đến chỗ Ly-xa, nói như sau: “Này các cư sĩ, đồng tử Ly-xa Am Bà La đã hủy hoại phạm hạnh đệ tử của tôi. Đó là việc bất thiện, không phải pháp tùy thuận”.
Các Ly-xa nghe thế liền tự bảo nhau: “Vừa rồi, chính đức Thế Tôn muốn nói về việc nầy đây”, bèn cảm thấy rất xấu hổ, nói với Tỉ-kheo-ni: “Vậy, Ni-sư muốn chúng tôi trừng trị bằng cách nào đây?”
Tỉ-kheo-ni nói: “Đổi họ ông ta, công bố ông ta không còn là người Ly-xa nữa, xoay cửa nhà ông ta về hướng Tây, phá nhà bếp ông ta, hủy mái nhà ông ta xung quanh một khuỷu tay”.
Các Ly-xa đáp: “Xin thọ giáo”, liền tuyên bố Am Bà La không còn là Ly-xa nữa, rồi xoay cửa nhà ông ta về hướng Tây, cho đến phá hủy mái nhà ông ta.
Bấy giờ đức Thế Tôn đi đến giữa đám đông Tỉ-kheo, trải tọa cụ ngồi, trình bày lại đầy đủ sự việc kể trên với các Tỉ-kheo. Trong trường hợp phá tịnh hạnh Tỉ-kheo-ni: Nếu (hành dâm với) Ni A-la-hán, A-na-hàm mà lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối tất cả (đều thọ lạc) thì gọi là phá hoại tịnh hạnh của Ni. Nếu Ni Tư-đà-hàm, Ni Tu-đà-hoàn, Ni phàm phu giữ giới mà (khi hành dâm) lúc đầu thọ lạc thì gọi là hoại tịnh hạnh của Ni, còn lúc giữa và lúc cuối (thọ lạc) thì không gọi là hoại tịnh hạnh.
Khi ấy có một (Tỉ-kheo) ngớ ngẩn, lúc còn là người thế tục đã hoại tịnh hạnh của Ni, tâm sinh nghi hoặc, liền bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, lúc con còn là người thế tục đã hủy hoại tịnh hạnh của Ni”. Phật bèn nói với các Tỉ-kheo: “Ông (Tỉ-kheo) ngớ ngẩn nầy tự nói: Đã hủy hoại tịnh hạnh của Ni, vậy hãy đuổi đi”.
Các Tỉ-kheo liền đuổi vị ấy.
Phật lại dạy: “Nếu kẻ nào hoại tịnh hạnh của Ni thì không nên cho họ xuất gia. Nếu đã xuất gia thì phải đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là hoại tịnh hạnh của Tỉ-kheo-ni”.
2. Sống trong chúng để trộm pháp:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có đàn việt đến tinh xá cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, thì có một người đen điêu, bụng bự đến ngồi chỗ của Thượng tọa. Trong chốc lát, Thượng Tọa đến hỏi:
—Ông bao nhiêu hạ lạp?
—Ngồi ở đây ăn cơm thì bình đẳng cả, còn phải vất vả hỏi tuổi tác làm gì?
Vì Thượng Tọa có uy đức nghiêm trang, bèn bảo: “Ối chao! Ông đi xuống dưới kia”. Ông bèn đến ngồi chỗ của Thượng Tọa thứ hai. Trong khoảnh khắc, Thượng Tọa thứ hai đến, hỏi:
—Ông bao nhiêu tuổi hạ?
—Ngồi đây ăn cơm thì bình đẳng cả, còn phải vất vả hỏi tuổi tác để làm gì?
Cứ như vậy, lần lượt đến chỗ của Sa-di. Sa-di xua đuổi, hỏi:
—Ai là Hòa Thượng của ông? Ai là thầy ông? Sa-di có mấy giới? Sa-di phải thuộc bao nhiêu thứ? Loại thứ nhất gọi là gì? (Đó là: 1. Tất cả chúng sinh đều ngước lên mà ăn; 2. Hai loại danh, sắc; 3. Ba cảm thọ; 4. Bốn Thánh đế; 5. Năm ấm; 6. Lục nhập; 7. Thất giác ý; 8. Bát Chánh đạo; 9. Chín cõi của chúng sinh cư trú; 10. Thập nhất thiết nhập. Phép của Sa-di là phải nhớ những điều như vậy).
—Tôi là đệ tử lớn nhất của Nan-đà, Ưu Ba Nan-đà.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật nói: “Ông ta không phải là đệ tử lớn nhất của Nan-đà, Ưu Ba Nan-đà. Đây là người tự động xuất gia. Nếu người như thế ấy mà chưa từng tham dự Bố-tát, Tự-tứ, sau nầy có lòng tốt muốn xuất gia, thì nên cho xuất gia thọ Cụ túc. Nếu đã từng tham dự Bố-tát, Tự-tứ thì gọi là kẻ sống trong chúng để ăn trộm, không cho xuất gia, thọ Cụ túc. Nếu là con vua hay con quan đại thần vì tị nạn mà khoác Ca sa, nhưng chưa tham dự Bố-tát Tự-tứ, thì nên cho xuất gia. Nếu đã từng tham dự Bố-tát, Tự-tứ thì không cho xuất gia. Nếu Sa-di suy nghĩ: “Trong khi Thuyết giới không biết bàn luận về vấn đề gì?”, rồi lén chui trước dưới giường của Thượng Tọa để nghe trọâm, giá như ông ta thông minh, nhớ tất cả các lời từ lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối trong khi thuyết giới, thì sau nầy không được thọ Cụ túc. Nếu đần độn, hoặc ngủ, hoặc tâm ý đang nghĩ những chuyện khác, không nhớ những lời nói lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối trong khi thuyết giới, thì sau nầy được thọ Cụ túc. Nếu sống trong chúng để ăn trộm thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì phải đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là kẻ ở trong chúng để ăn trộm”.
3. Kẻ lừa đảo:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một người trước bữa ăn, mặc theo hình thức của Sa-môn, tay cầm bát đen, vào xóm làng khất thực. Sau bữa ăn, ông lại mặc theo hình thức ngoại đạo, tay cầm bát bằng gỗ, theo người ta vào nơi công viên, hồ nước, chỗ du ngoạn trong rừng để khất thực, bị người đời chê bai: “Vì sao Sa-môn Thích tử vào trong xóm làng đến nhà tôi khất thực, giờ lại vào trong rừng, không làm sao thoát được ông ta?” Lại có người nói: “Ông không biết sao? Kẻ Sa-môn nầy dối trá, vì y phục ẩm thực nên vào cả hai nơi”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật nói: “Đó gọi là kẻ lừa đảo, bỏ hình thức Sa-môn, khoác hình thức ngoại đạo, rồi lại bỏ hình thức ngoại đạo khoác hình thức Sa-môn. Những kẻ lừa đảo như vậy không nên cho xuất gia. Nếu đã cho xuất gia thì phải đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là kẻ lừa đảo”.
4. Ngũ vô gián (ngũ nghịch):
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Bà-la-môn Đô Di vốn là Thiện tri thức cũ của Xá-lợi-phất, đến chỗ Xá-lợi-phất, nói như sau:
—Tôn giả, cho tôi xuất gia.
—Đó là việc tốt. Ông vốn là Bà-la-môn thường tương phản với Sa-môn, do đâu mà có tín tâm, theo ai nghe pháp, phát tâm hoan hỉ, theo Thế Tôn chăng, hay theo các Tỉ-kheo?
—Tôi cũng chẳng có tín tâm gì, lại không hoan hỉ, cũng chẳng theo ai nghe pháp cả. Chỉ vì tôi giết mẹ nên muốn đoạn trừ tội nầy, do đó mà xuất gia.
—Đợi tôi hỏi đức Thế Tôn đã.
Thế rồi, Xá-lợi-phất đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật nói: “Người nầy giết mẹ, gây tội vô gián, vốn là hạt giống thối nát, đối với chánh pháp không thể phát sinh Thánh Thiện, không nên cho xuất gia”.
Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bà-la-môn Đô Do vốn là Thiện tri thức cũ của A Nan, đến chỗ A Nan, nói:
—Tôn giả, tôi muốn xuất gia.
—Đó là việc tốt.
Cho đến Phật nói với A-nan: “Người nầy giết cha, tạo nên tội vô gián, là hạt giống mục nát, đối với chánh pháp không thể thành tựu đạo quả. Giá như bảy đức Phật cùng xuất hiện một lúc, thuyết pháp cho y nghe, thì đối với chánh pháp, rốt cuộc cũng không thể sinh ra Thiện tâm. Ví như cây đa-la đã bị chặt đầu thì không thể sống, không còn xanh, cũng không còn mầm sống ở bên trong. Tội vô gián nầy cũng như vậy, đối với chánh pháp không thể sinh mầm móng Thánh Thiện. Nếu kẻ nào gây ra năm tội vô gián, thì không nên cho xuất gia. Nếu đã cho xuất gia thì phải đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Ngoài ra, ba tội vô gián kia cũng như vậy. Đó gọi là năm tội vô gián”.
5. Sáu loại người không thể làm đàn ông:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ-kheo ban đêm đang ngủ trong phòng thì có kẻ đến rờ mó từ gót chân lên đến bắp vế, đến bụng, rồi lần tới chỗ kín. Tỉ-kheo định chụp bắt, thì anh ta liền chạy thoát. Rồi anh ta lại đến những nơi khác như hội trường, phòng sưởi, nơi nào cũng làm như thế. Sáng hôm sau, các Tỉ-kheo tập trung một chỗ bàn tán nhau: “Nầy các Trưởng lão, đêm qua trong khi ngủ thì có người đến rờ mó khắp người rồi lần tới chỗ kín, tôi định bắt lấy thì anh ta chạy thoát”.
Lại có Tỉ-kheo khác nói: “Tôi cũng gặp trường hợp như thế”. Cho đến nhiều người cũng gặp như thế. Rồi một Tỉ-kheo suy nghĩ: “Đêm nay ta phải rình để bắt hắn”. Đoạn, Tỉ-kheo nầy đến tối, liền ngủ sớm, rồi thức dậy rình. Trong khi các Tỉ-kheo đang ngủ thì hắn ta lại đến sờ mó như trước. Tỉ-kheo liền chộp cổ được, bèn kêu lớn lên: “Các trưởng lão, hãy đem đèn lại đây”. Khi đã đem đèn tới, liền hỏi y:
—Ngươi là ai?
—Tôi là con gái của vua.
—Thế nào là con gái?
—Tôi thuộc lưỡng tính, phi nam, phi nữ.
—Vì lý do gì mà ngươi xuất gia?
—Tôi nghe nói Sa-môn không có vợ, tôi muốn đến làm vợ.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật nói: “Đó là kẻ bất năng nam. Bất năng nam có sáu loại. Đó là: 1. Sanh; 2. Bị phá hỏng; 3. Cắt bỏ; 4. Nhân người khác (mà cương cứng); 5. Tật đố; 6. Nửa tháng có tác dụng.
1. Sanh: Từ khi sinh đã không có nam căn, đó gọi là sanh.
2. Bị phá hỏng: Vợ lớn vợ bé sinh con, ganh ghét nhau, rồi họ tìm cách phá hỏng. Đó gọi là bị phá hỏng không thành đàn ông.
3. Cắt bỏ: Hoặc vua, hoặc đại thần chọn những người đã cắt bỏ nam căn để hầu hạ nơi phòng the. Đó gọi là bị cắt bỏ không còn là đàn ông.
4. Nhân người khác: Nhân có người xúc chạm mà nam căn cương cứng. Đó gọi là nhân người khác mà bất năng nam.
5. Tật đố: Thấy người khác hành dâm mà nam căn cương cứng. Đó gọi là tật đố, không thành đàn ông.
6. Nửa tháng (có tác dụng): Nửa tháng có tác dụng, nửa tháng không có tác dụng. Đó gọi là nửa tháng không thành đàn ông.
Trong đây, sanh không thành đàn ông, bị phá hỏng không thành đàn ông, cắt bỏ không thành đàn ông, ba loại không thành đàn ông nầy không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì phải đuổi đi. Còn nhân người khác mà không thành đàn ông, tật đố không thành đàn ông, nửa tháng không thành đàn ông, ba loại không thành đàn ông nầy không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia, thì không nên đuổi đi, về sau, nếu sinh khởi dâm dục thì phải đuổi đi. Sáu loại không thành đàn ông nầy không nên cho xuất gia. Nếu ai độ cho họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là sáu loại không thành đàn ông.
6. Nhỏ quá.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ-kheo độ trẻ con xuất gia, nằm xuống, ngồi dậy phải nhờ người khác đỡ đần, đi ra đi vào cầu tiêu, dính đồ bất tịnh làm dơ bẩn mền gối của Tăng chúng, ngủ dậy kêu khóc, do đó, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử độ trẻ con xuất gia, chưa biết phép tắc, chưa biết những lời nói nào là tốt hay xấu? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”
Lại có người mỉa mai: “Ông không biết sao? Vì Sa-môn nầy không có con, nên nuôi trẻ con người khác để tưởng tượng là con mình, lấy đó làm vui”.
Lại có người khác chêm vào: “Các Sa-môn nầy chỉ duy nhất không độ hai hạng người: Một là người chết, hai là người không muốn xuất gia. Nếu không độ họ, thì đồ chúng không tăng trưởng. Do đó mà phải độ nhiều”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi đầy đủ việc kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau người còn nhỏ quá không nên cho xuất gia. Nhỏ quá có nghĩa là: Hoặc dưới bảy tuổi, hoặc đủ bảy tuổi mà không biết việc tốt xấu, đều không nên cho xuất gia. Nếu đủ bảy tuổi mà hiểu biết được việc tốt xấu thì nên cho xuất gia. Nếu trẻ con đã cho xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là quá nhỏ.
7. Già quá.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo độ những người tám mươi, chín mươi tuổi xuất gia, đầu bạc, lưng còng, xương sống lồi lõm, các căn không còn chủ động được, khi muốn tiểu tiện thì phân lòi ra, đi đứng phải có người giúp đỡ, không thể tự mình đứng dậy nổi. Hoặc ở trong phòng, hoặc ở nơi nhà sưởi, chỗ rửa chân, chỗ đi kinh hành, ho hen liên hồi muốn hụt hơi, đàm dãi tuôn ra làm dơ bẩn trú xứ của Tăng; do đó, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử độ những ông lão đầu bạc, lưng còng, ho hen chấn động, đi đứng phải nhờ người giúp đỡ nầy xuất gia? Người xuất gia lẽ ra phải tráng kiện để tọa Thiền, tụng kinh, tu tập các nghiệp, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”
Lại có người mỉa mai: “Ông không biết sao? Vì Sa-môn Thích tử xuất gia không có cha, nên nuôi những ông lão nầy để tưởng tượng là cha mình”. Lại có người chêm vào: “Các Sa-môn nầy chỉ có hai hạng người họ không độ: một là người chết, hai là người không muốn xuất gia. Vì nếu không độ thì hội chúng không tăng trưởng”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Phật. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự việc kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người quá già không nên cho xuất gia. Quá già nghĩa là quá bảy mươi tuổi. Nhưng nếu dưới bảy mươi tuổi mà không còn làm việc nổi, nằm ngồi phải nhờ người khác giúp đỡ, người như vậy cũng không nên cho xuất gia. Nếu quá bảy mươi tuổi mà còn có thể làm việc được thì cũng không nên cho xuất gia. Những người đủ bảy mươi tuổi mà khang kiện có thể tu tập các nghiệp thì cho họ xuất gia. Còn già quá thì không nên cho xuất gia. Nếu ai đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là già quá.
8. Bị chặt tay.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị chặt tay xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp, bị chặt tay xuất gia? Người xuất gia lẽ ra thân thể phải hoàn bị, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người bị chặt tay không nên cho xuất gia. Bị chặt tay nghĩa là: hoặc bị chặt cánh tay, hoặc bị chặt cổ tay, hoặc bị chặt ngón tay nhỏ, ngón tay lớn thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bị chặt tay.
9. Bị chặt chân.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị chặt chân xuất gia, bị người đời chê cười, cho đến câu Phật dạy: “Từ nay về sau những người bị chặt chân không nên cho xuất gia. Bị chặt chân nghĩa là: hoặc bị chặt chân, hoặc bị chặt bắp chân, hoặc bị chặt ngón chân út, ngón chân cái thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi, cho đến câu phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là bị chặt chân.
10. Bị chặt cả tay chân.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị chặt cả tay chân xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp, bị chặt cả tay chân xuất gia? Nếu một thứ bị chặt còn không được xuất gia, huống gì cả hai thứ đều bị chặt. Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau những người bị chặt cả tay chân không nên cho xuất gia. Chặt cả tay chân nghĩa là: Hoặc bị chặt tay phải, chân trái; hoặc bị chặt tay trái, chân phải; hoặc bị chặt tay trái, chân trái; hoặc bị chặt tay phải, chân phải, đều không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bị chặt cả tay chân.
11. Bị cắt tai.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị cắt tai xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp bị cắt tai?”. Cho đến Phật nói: “Từ nay về sau, những người bị cắt tai không nên cho xuất gia. Bị cắt tai nghĩa là: hoặc bị cắt tai, hoặc bị cắt vành tai. Nếu trước kia xỏ lỗ tai mà có thể liền lại thì được cho xuất gia. Còn người bị cắt tai thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bị cắt tai.
12. Bị xẻo mũi.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo độ người bị xẻo mũi xuất gia, nên bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp bị xẻo mũi xuất gia? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật nói: “Từ nay về sau, những người bị xẻo mũi không nên cho xuất gia. Bị xẻo mũi nghĩa là: hoặc bị xẻo mũi, hoặc bị xoi thủng mũi, đều không nên cho xuất gia”, cho đến… đó gọi là bị xẻo mũi.
13. Bị cắt cả tai mũi.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị cắt cả tai mũi xuất gia, nên bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người bị cắt cả tai mũi xuất gia? Bị cắt một thứ còn không được xuất gia huống gì bị cắt cả hai thứ. Đó là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật nói: “Từ nay về sau những người bị cắt cả tai mũi không nên cho xuất gia”, cho đến… đó gọi là bị cắt cả tai mũi.
14. Bị mù:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người mù lòa xuất gia, rồi nắm tay dắt đi, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người mù lòa xuất gia, không thể tự đi được, phải cầm tay dắt đi? Người xuất gia cần phải đầy đủ các căn; đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người mù lòa không nên cho xuất gia. Mù lòa nghĩa là mắt hoàn toàn không thấy các vật. Nếu (không) thấy rõ những đường chỉ tay, hoặc mắt ti hí như mắt chim sẻ thì không được cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bị mù.
15. Bị điếc.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người điếc xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người điếc xuất gia, không nghe được những lời nói thiện ác, thì làm sao nghe pháp? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật nói: “Từ nay về sau, những người điếc không nên cho xuất gia. Điếc nghĩa là không nghe được tất cả các âm thanh, nếu nghe được tiếng nói lớn thì nên cho xuất gia”, (cho đến… ) đó gọi là bị điếc.
16. Bị cả mù điếc.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người bị mù điếc xuất gia, nên bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người vừa mù vừa điếc xuất gia, không thể nghe thấy gì cả? Người xuất gia các căn nên đầy đủ, bị mù còn không được, huống gì cả mù điếc. Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến Phật nói: “Từ nay về sau những người mù điếc không nên cho xuất gia”. (cho đến… ) đó gọi là mù điếc.
17. Bị câm.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người câm xuất gia, dùng tay ra dấu, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người câm xuất gia, không thể nói được mà phải dùng tay ra dấu? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến Phật nói: “Từ nay về sau không được độ người câm xuất gia. Câm nghĩa là không thể nói được mà phải dùng tay ra dấu, hạng người ấy không nên cho xuất gia, nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi”, (cho đến… ) đó gọi là câm.
18. Què:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người què xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người què đi không được xuất gia? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến… Phật nói: “Từ nay về sau không nên cho người què xuất gia. Què nghĩa là hai tay mang guốc mà đi. Người như vậy thì không nên cho xuất gia, nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi”. (Cho đến… ) đó gọi là bị què.
19. Vừa câm vừa què.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người vừa câm, vừa què xuất gia, cho đến: “Nếu ai cho họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là vừa câm vừa què.
20. Bị đánh có sẹo.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người có sẹo xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp bị đánh có sẹo xuất gia? Người xuất gia thân thể phải lành lặn, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, không nên độ những người bị đánh có sẹo xuất gia. Bị đánh có sẹo nghĩa là: hoặc lồi lên, hoặc lõm xuống. Nhưng nếu có thể chữa trị vết sẹo trở lại bình thường, liền với màu da thì nên cho xuất gia. Còn những người bị đánh có sẹo thì không nên cho xuất gia, nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bị đánh có sẹo.
21. Bị đóng dấu.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo độ người bị đóng dấu xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người phạm vương pháp bị đóng dấu xuất gia? Người xuất gia cần phải lành lặn mới phải, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến… Phật dạy: “Từ nay về sau những người bị đóng dấu không nên cho xuất gia. Bị đóng dấu nghĩa là dùng mật con công hay chất ten của đồng vân vân in vào da thành chữ, hoặc thành các hình chim, thú khiến thịt bị hỏng. Những người như vậy không nên cho xuất gia, nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, thọ Cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là bị đóng dấu.
22. Bị rút gân.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người bị rút gân xuất gia, phải kéo lê chân mà đi, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người bị rút gân, phải kéo lê chân mà đi? Người xuất gia lẽ ra phải lành lặn mới được, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến… Phật dạy: “Từ nay về sau, những người bị rút gân không nên cho xuất gia. Bị rút gân nghĩa là bị rút gân gót chân. Người như thế không nên cho xuất gia. (Cho đến… ) phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là bị rút gân.
23. Gân bị giãn.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người gân bị giãn xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người gân bị giãn xuất gia? Người xuất gia lẽ ra thân thể phải lành lặn mới được”.
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến… Phật nói: “Từ nay về sau những người gân bị giãn không nên cho xuất gia. Gân bị giãn nghĩa là: Từ gót chân đưa lên cổ được, từ cổ gập xuống gót chân được. Những người như vậy không nên cho xuất gia. (Cho đến… ) phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là gân bị giãn.
24. Bị còng lưng.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có Tỉ-kheo độ người còng lưng, lùn tịt xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ người còng lưng diễn trò cho vua xem xuất gia? Người xuất gia thì thân thể cần phải thẳng thớm, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”
Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cho đến… Phật nói: “Từ nay về sau, những người còng lưng không nên cho xuất gia. Còng lưng nghĩa là: lưng không thẳng. Còn lùn thấp thì hoặc là phần trên dài, phần dưới ngắn, hoặc phần trên ngắn, phần dưới dài, hoặc hoàn toàn ngắn. Người như vậy không nên cho xuất gia. (Cho đến… ) phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là còng lưng, lùn thấp.
Hết quyển thứ hai mươi ba
NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ HAI.
25. Quan Viên.
Khi Phật an trú tại vườn Trúc Ca Lan Đà, nơi Thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-Kheo độ một quan viên xuất gia, Thọ cụ túc. Viên quan hình sự thấy thế, liền bắt Tỉ-Kheo tống đến chỗ quan tòa, nói như sau: “Vị Sa-môn nầy lén độ quan viên”.
Vị quan tòa nói: “Đem Hòa Thượng ra bẻ gãy ba xương sườn, dẫn giới sư đến kéo lưỡi ra, lôi thập sư ra đánh mỗi người tám roi. Còn kẻ Thọ cụ túc kia thì dùng cực hình trị tội”.
Khi đám đông đang hộ tống các tội nhân ra khỏi thành thì nhằm lúc vua Tần Bà Ta La trên đường đi đến Thế Tôn, trông thấy đám đông nầy, vua liền hỏi tả hữu: “Đó là những người nào vậy?”.
Quân hầu liền đem sự việc kể trên tâu đầy đủ với vua. Vua nghe xong, giận dữ cực độ, liền ra lệnh thả ra, nói: “Từ nay về sau, ai muốn xuất gia thì cho phép Thầy được tiếp độ”.
Đoạn, vua bảo gọi quan tòa đến. Khi y đến, vua hỏi:
—Trong nước nầy ai là vua?
—Đại vương là vua.
—Nếu Trẫm là vua thì vì sao ngươi trị tội người mà không tâu với Trẫm?
Đoạn, vua ra lệnh quan hữu Ty cách chức viên quan tòa, đồng thời tịch thu hết tài sản sung vào công khố. Quan hữu Ty liền thi hành mệnh lệnh của vua, lột chức quan của y, và tịch thu hết tài sản của y nhập vào công khố.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-Kheo: “Ước gì tất cả các vì vua đều có lòng tin như thế! Từ nay về sau, Ta không cho phép thu nhận quan chức xuất gia. Quan chức có bốn loại: 1. Hoặc có danh mà không có bổng lộc; 2. Hoặc có bổng lộc mà không có danh; 3. Hoặc vừa có bổng lộc vừa có danh; 4. Hoặc không có danh, không có bổng lộc. Trong đây, có danh mà không có bổng lộc, có danh và có bổng lộc, thì ở nước nầy không cho xuất gia và các nước khác cũng không cho. Còn loại có bổng lộc mà không có danh thì ở đây không cho, nhưng ở nơi khác thì cho. Còn hạng không có danh, không có bổng lộc thì ở đây cho và các nơi khác cũng cho. Tóm lại, không nên cho quan chức xuất gia, (cho đến… ) phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là quan chức.
26. Kẻ mắc nợ.
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-Kheo độ kẻ mắc nợ xuất gia. Chủ nợ gặp được, liền thôïp cổ đem đến quan tòa, nói: “Người nầy mắc nợ tôi chưa trả mà xuất gia”.
Viên quan tòa vốn có lòng tin Phật pháp, bèn nói với chủ nợ: “Người nầy đã xả bỏ tài sản xuất gia, vì sao lại mắc nợ?”, liền tha cho đi.
Chủ nợ bèn than trách: “Người nầy vốn đang mang nợ của tôi chưa trả, vì sao Sa-môn Thích tử lại cho y xuất gia? Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-Kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người mắc nợ không nên cho xuất gia. Nếu họ đến định xin xuất gia thì trước hết phải hỏi: “Ngươi có mắc nợ người ta không?”. Nếu nói: “Có mắc nợ, nhưng nhà tôi có vợ con ruộng đất tài sản, tôi sẽ trả”, thì nên cho xuất gia. Nếu nói: “Không mắc nợ”, thì nên cho xuất gia. Sau khi xuất gia mà chủ nợ đến đòi, nếu món nợ ít thì lấy y bát của người ấy trả cho chủ nợ. Nếu không đủ thì phải đem y bát của mình mà trả. Hoặc xin thêm để giúp vào mà trả. Nếu số nợ nhiều không thể trả nổi, thì nên nói: “Trước đây ta đã hỏi ngươi có mắc nợ hay không thì ngươi nói là không mắc nợ, vậy ngươi hãy tự đi xin tiền của để trả nợ người ta”. Tóm lại, người mắc nợ không nên cho xuất gia. nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Cho đến… phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là mắc nợ.
27. Bị bệnh.
Khi Phật an trú tại vườn Trúc Ca Lan Đà, thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có một người bệnh đến chỗ lương y Kỳ-vức, nói như sau:
—Kỳ-vức, trị bệnh cho tôi rồi Tôi sẽ trả cho ông năm trăm lượng vàng và hai cây lụa mỏng.
—Tôi không thể trị. Tôi chỉ trị cho hai hạng bệnh nhân: Một là đức Phật, Tỉ-Kheo Tăng; hai là nhà vua và các phu nhân hậu cung của vua.
Người bệnh liền đi đến phòng Nan Đà, Ưu Ba nan Đà. Tới rồi, Nan Đà hỏi:
—Lão trượng, bốn đại có điều hòa không?
—Bị bệnh, không được điều hòa. Tôi đến chỗ Kỳ-vức, dùng năm trăm lượng vàng, hai cây lụa mỏng thuê ông trị bệnh mà ông không chịu trị, lại nói: “Tôi chỉ trị hai hạng bệnh nhân: Phật, Tỉ-Kheo Tăng và nhà vua cùng các phu nhân hậu cung”.
—Ông bỏ năm trăm lượng vàng, hai cây lụa mỏng làm chi cho uổng. Ông chỉ cần bỏ hai thứ: một là bỏ tóc, hai là bỏ y phục thế tục là được.
—Thưa Thầy, thầy muốn Tôi xuất gia sao?
—Dĩ nhiên.
Nan Đà liền độ ông ta xuất gia cho Thọ cụ túc. Thế rồi, sáng sớm thầy khoác y thường mặc, đi đến nhà Kỳ-vức, nói như sau:
—Đồng tử, tôi có đệ tử đồng hành bị bệnh, hãy trị giúp giùm tôi.
—Được thôi. Con định đem thuốc đến đây.
Kỳ-vức bèn mang thuốc đến tu viện, thấy người bệnh, ông nhận diện ra ngay, liền hỏi:
—Tôn giả đã xuất gia rồi sao?
—Vâng.
—Tốt lắm. Giờ tôi sẽ trị bệnh cho Thầy.
Thế rồi, Kỳ-vức liền dùng thuốc chữa trị. Khi trị lành còn đem hai cây lụa mỏng cúng dường và cầu chúc: “Mong tôn giả hãy sống trong Phật pháp tịnh tu phạm hạnh”.
Người bệnh ấy nhận vật cúng dường rồi liền bãi đạo, cởi áo ca sa, mặc hai tấm lụa mỏng, đi vào trong đường hẻm, chửi xéo như sau: “Lương y Kỳ-vức có rất nhiều con. Tôi đem năm trăm lượng vàng, hai cây lụa mỏng thuê ông trị bệnh mà ông không chịu trị. Nhưng khi thấy tôi xuất gia liền chữa trị, lại còn cúng dường nữa chứ”.
Kỳ-vức nghe thế, lòng rất căm hận, liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên, bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, người bệnh kia nhờ con mới được sống mà trái lại còn nhục mạ con. Bạch Thế Tôn, con là Ưu-bà-tắc, vì muốn cho Phật pháp được tăng trưởng, kính xin Thế Tôn từ nay về sau đừng cho các Tỉ-Kheo độ người bệnh xuất gia”.
Bấy giờ, Thế Tôn vì đồng tử Kỳ-vức tùy thuận thuyết pháp, chỉ bảo những điều lợi ích, khiến ông hoan hỉ, đảnh lễ dưới chân rồi ra đi. Thế rồi, Thế Tôn đi đến chỗ có đông các Tỉ-Kheo, trải tọa cụ ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc kể trên cho các Tỉ-Kheo nghe. Đoạn, Phật nói: “Từ này về sau, những người bệnh không nên cho xuất gia. bệnh nghĩa là bệnh ghẻ, bệnh lở lóet, bệnh hủi, bệnh ung thư, bệnh trĩ, bệnh đái tháo, bệnh vàng da, bệnh sốt rét, bệnh suyển, bệnh gầy còm, bệnh điên cuồng, bệnh nhiệt, bệnh phong thũng, thủy thũng, bụng chướng v.v… , nói chung, nếu uống thuốc chưa bình phục thì không nên cho xuất gia. Nếu bệnh sốt rét trong vòng từ một đến bốn ngày mà không tái phát thì nên cho xuất gia. Tóm lại, nếu là người bệnh thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, Thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là bệnh.
28. Ngoại đạo.
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-Kheo độ ngoại đạo xuất gia. Sau khi xuất gia, hễ ai nói về những thói xấu của ngoại đạo như: Ngoại đạo không có lòng tin, tà kiến, phạm giới, không có tàm quí. Khi nghe chê bai về những thói xấu của ngoại đạo như thế, thì ông ta liền bênh vực: “Nầy trưởng lão, chớ nói như thế. Trong hàng ngũ ấy cũng có những bậc hiền Thiện, cũng giữ giới. Tất cả đều đạt được Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-Kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự việc kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Vì sao ngoại đạo chưa được thử thách mà ông cho họ xuất gia? Từ nay về sau, nếu ngoại đạo chưa được thử thách, thì không nên cho xuất gia. Nếu ngoại đạo đến xin xuất gia thì phải cho họ sống chung trong bốn tháng để thử thách. Vị Tỉ-Kheo nhận họ phải bạch Tăng. Khi bạch Tăng rồi, trước hết Tăng nên cho vị ấy pháp yết-ma cầu thính, rồi sau mới cho cầu xin. Người làm yết ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp ngoại đạo muốn xuất gia theo giáo pháp của Như Lai. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho mỗ giáp ngoại đạo xin sống bốn tháng trong Tăng để thử thách.
Xin các đại đức Tăng lắng nghe. Mỗ giáp ngoại đạo muốn xin sống bốn tháng trong Tăng để thử thách.
Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Thế rồi người nầy phải theo Tăng xin như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Con là ngoại đạo mỗ giáp, muốn xuất gia Thọ cụ túc trong giáo pháp của đức Như Lai. Con là mỗ giáp theo Tăng xin sống bốn tháng thử thách. Kính xin chư đại đức Tăng thương xót cho con sống bốn tháng. (xin như vậy ba lần).
Thế rồi, Thầy yết-ma nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Ngoại đạo mỗ giáp muốn xuất gia, Thọ cụ túc trong giáo pháp Như Lai, đã xin Tăng bốn tháng thử thách. Nếu thời gian của Tăng đã đến, nay Tăng cho ngoại đạo mỗ giáp sống bốn tháng thử thách. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Ngoại đạo mỗ giáp muốn xuất gia Thọ cụ túc trong giáo pháp của đức Như Lai, đã theo Tăng xin bốn tháng thử thách. Tăng nay cho ngoại đạo mỗ giáp sống bốn tháng thử thách. Đại đức nào bằng lòng Tăng cho ngoại đạo mỗ giáp sống bốn tháng thử thách thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng đã bằng lòng cho ngoại đạo mỗ giáp sống bốn tháng thử thách xong, vì Tăng đã im lặng. Việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Sau khi làm yết-ma xong, nếu người nầy có thể theo Tăng làm các công việc như Sa-di, thì xếp dưới Sa-di theo thứ tự lấy thức ăn. Nếu không thể làm việc được thì nên bảo: “Ông tự tìm lấy Thức ăn”. Thế rồi, hằng ngày nên chỉ trích ngoại đạo ở trước mặt y như sau: Ngoại đạo không có niềm tin, tà kiến, phạm giới, không biết hổ thẹn v.v. khi chỉ trích các điểm như vâïy mà y nói: “Trưởng lão đừng nói như vậy, trong hàng ngũ ấy cũng có người hiền Thiện, có người giữ giới, tất cả đều đạt được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán”, thì nên nói với y: “Ngươi hãy trở về nơi đó mà cầu A-la-hán”. Nếu y nói: “Đúng như Trưởng lão nói, ngoại đạo có tà kiến, (cho đến… ) không biết xấu hổ, gây nghiệp địa ngục, xin Trưởng lão hãy cứu vớt con”. Đồng thời qua bốn tháng thử thách mà tâm y bất động không dời đổi thì nên cho xuất gia. Nếu nửa chừng mà được Thánh pháp thì chấm dứt sự thử thách. Nếu người ấy bỏ hình thức ngoại đạo mặc sắc phục của người đời đến xin xuất gia thì nên cho xuất gia. Nếu họ mặc hình thức ngoại đạo đến mà không cho bốn tháng thử thách, liền cho xuất gia, Thọ cụ túc, thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là ngoại đạo.
29. Trẻ con.
Khi Phật an trú tại tinh xá của dòng họ Thích, bên cây ni-câu-luật, nước Ca-duy-la-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có đồng tử con nhà họ Thích cha mẹ không cho mà các Tỉ-Kheo độ cho xuất gia. Sau đó, các đứa con còn lại khi cha mẹ dạy bảo, thì chúng giận dữ, nói: “Đức Thế Tôn lúc sắp trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, còn bỏ nhà xuất gia, con còn luyến tiếc điều gì mà không xuất gia?”. Khi ấy, các người họ Thích liền đến chỗ vua Bạch Tịnh tâu rằng: “Tâu đại vương, con của tôi không cho mà các Tỉ-Kheo độ cho xuất gia, cho nên những đứa còn lại không thể dạy bảo được. Nếu có dạy bảo chúng, thì chúng hậm hực, nói: “Đức Thế Tôn khi sắp trở thành Chuyển Luân Thánh Vương mà còn bỏ đi xuất gia, thì con còn luyến tiếc điều gì mà không xuất gia?”. Kính mong đại vương đến Thế Tôn xin một nguyện vọng: “Nếu cha mẹ không cho thì đừng cho xuất gia”.
Khi ấy, vua Bạch Tịnh cùng với các người họ Thích đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên. Đoạn, nhà vua bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, các đồng tử dòng họ Thích cha mẹ không cho mà các Tỉ-Kheo cho xuất gia. Cho nên những đứa còn lại nếu có dạy bảo điều gì thì chúng hậm hực đòi xuất gia, nói: “Đức Thế Tôn sắp đạt địa vị Chuyển Luân Thánh Vương mà còn bỏ đi xuất gia, vậy thì con còn luyến tiếc thứ gì mà không xuất gia?” Bạch Thế Tôn, cha mẹ nghĩ đến con nhớ thương thấu suốt xương tủy. Tôi cũng đã từng như vậy. Trong thời gian bảy năm Thế Tôn xuất gia, khi ngồi đứng, ăn uống, không lúc nào là tôi không thầm khóc. Kính mong Thế Tôn chế định: Nếu cha mẹ chưa cho phép thì các Tỉ-Kheo đừng cho xuất gia”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bèn tùy thuận thuyết pháp cho vua Bạch Tịnh, khiến vua phát tâm hoan hỉ, đoạn, vua cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi ra đi. Khi vua đi không bao lâu, Thế Tôn liền đến chỗ đông đúc các Tỉ-Kheo, trải tọa cụ ngồi, tường thuật lại đầy đủ sự việc kể trên cho các Tỉ-Kheo. Rồi Phật nhấn mạnh: “Từ nay về sau (đứa con nào) cha mẹ không cho phép thì không nên cho xuất gia. Con gồm có ba loại: Con ruột, con nuôi và con đến (xin làm con nuôi). Con ruột: tức là con do cha mẹ sinh. Con nuôi: tức cha mẹ xin trẻ con còn nhỏ đem về nuôi dưỡng. Con tự đến: tức người tự đến nương tựa xin làm con. Ở đây, con ruột thì nước nầy không cho phép (cha mẹ không cho mà độ họ xuất gia) mà các nước khác cũng không cho phép. Còn con nuôi và con tự đến xin nương tựa, thì nước nầy không cho phép, nhưng các nước khác thì cho phép. Tóm lại, nếu đứa con cha mẹ không cho thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia, Thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là con.
30. Đầy tớ.
Khi Phật an trú tại tinh xá của dòng họ Thích, dưới cây Ni-câu-luật, nước Ca-duy-la-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có một người đầy tớ của dòng họ Thích, chủ nhà không đuổi mà các Tỉ-Kheo độ y xuất gia. Do thế, bọn đầy tớ còn lại khi được chủ nhà dạy bảo, phân công công việc, chúng không chịu phục tùng mà hậm hực, nói: “Tôn giả Xiển Đà mà còn xuất gia, thì tôi còn luyến tiếc thứ gì, thà bỏ đi xuất gia còn được người ta lễ bái cung kính cúng dường”.
Khi ấy, các người họ Thích bèn đi đến chỗ vua Bạch Tịnh, tâu: “Thưa đại vương, bọn gia nô của chúng tôi, chúng tôi không đuổi mà các Tỉ-Kheo độ họ xuất gia. Do thế, số còn lại khi được phân công công việc thì chúng hậm hực, nói: “Tôn giả Xiển Đà mà còn xuất gia thì tôi còn luyến tiếc thứ gì; bỏ đi xuất gia còn được người ta lễ bái tôn kính cúng dường”. Thưa đại vương, dòng họ Thích chúng tôi có nhiều đầy tớ dùng để sai khiến làm các công việc. Kính mong đại vương đến Phật, cầu xin một nguyện vọng: những đầy tớ nào chủ không đuổi thì đừng cho xuất gia”. Thế rồi, vua Bạch Tịnh cùng với các người họ Thích đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi sang một bên, đem sự việc kể trên bạch đầy đủ với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chế định rằng từ nay về sau những nô bộc nào chủ không đuổi thì các Tỉ-Kheo đừng cho xuất gia”.
Khi ấy, đức Thế Tôn bèn tùy thuận thuyết pháp cho vua Bạch Tịnh, khiến ông phát tâm hoan hỉ, rồi vua cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn mà ra về. Khi vua đi không bao lâu, Thế Tôn bèn đi đến chỗ có đông Tỉ-Kheo, trải tọa cụ ngồi, trình bày lại đầy đủ sự việc kể trên với các Tỉ-Kheo. Đoạn, Phật nói: “Từ nay về sau, những nô bộc nào chủ không đuổi thì không nên cho xuất gia. Nô bộc gồm có năm loại: Sanh ra từ trong nhà; mua về; bắt được; người ta cho; tự đến.
1. Sinh ra từ trong nhà: Do tì thiếp trong nhà sinh ra.
2. Mua về: Đem tiền đi mua về.
3. Bắt được: Bắt được quân của nước láng giềng.
4. Người ta cho: Do người khác đem đến cho.
5. Tự đến: Tự đến xin làm nô bộc.
Ở trong đây, ba loại đầy tớ: sinh từ trong nhà, mua về và bắt được thì ở đây không cho phép (nếu chủ không đuổi thì không được độ xuất gia) mà các nơi khác cũng không cho phép. Còn hai loại: do người ta cho, tự đến làm nô bộc, thì ở đây không cho phép, nhưng ở các nơi khác thì cho phép. Tóm lại, nếu gia chủ không đuổi thì không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai cho họ xuất gia Thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là đầy tớ.
31. Thân thể dị dạng.
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ-Kheo độ những người mà các phần trên thân thể dị dạng xuất gia, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ những người thân thể dị dạng? Người xuất gia lẽ ra thân thể phải hoàn hảo, đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-Kheo ấy đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự việc kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người thân thể dị dạng không nên cho xuất gia. Thân thể dị dạng nghĩa là mắt lé, lưng gù, chân què, gót lệch, răng hô, đầu bự; những người có thân thể dị dạng như vậy không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia Thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là thân thể dị dạng.
32. Hình dáng xấu xí.
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, nói rộng như trên, được chư Thiên và người đời cúng dường. Bấy giờ, các Tỉ-Kheo độ những người có hình dáng xấu xí xuất gia, như quá đen, quá trắng, quá vàng, quá đỏ, quá cao, quá lùn, quá lớn, quá bé, bị người đời chê cười rằng: “Vì sao Sa-môn Thích tử lại độ những kẻ có hình dáng xấu xí xuất gia? Người xuất gia thì hình dáng phải đoan trang, mà những người nầy thì hình dáng xấu xí, không ai thích nhìn cả. Đây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!”. Lại có người chế nhạo: “Những Sa-môn nầy chỉ có hai hạng người họ không độ mà thôi, một là người chết, hai là người không thích xuất gia. Nếu không độ thì đồ chúng không tăng trưởng”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-Kheo ấy đến. Khi Thầy đến, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự kiện kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ nay về sau, những người có hình dáng xấu xí không nên độ xuất gia. Hình dáng xấu xí nghĩa là quá đen, quá trắng, quá vàng, quá đỏ, quá cao, quá lùn, quá thô, quá bé. Vì lẽ, những kẻ có hình dáng xấu xí thì khi người ta vui vẻ còn không muốn nhìn, huống gì khi người ta tức giận. Do đó, những người có hình dáng xấu xí không nên cho xuất gia. Nếu đã xuất gia thì không nên đuổi đi. Nếu ai độ họ xuất gia Thọ cụ túc thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là những hình dáng xấu xí.
Nếu rơi vào trong 32 trường hợp trên thì không thể gọi là Thọ cụ túc. Trái lại, nếu thanh tịnh, như pháp thì gọi là Thọ cụ túc.
Bây giờ đề cập đến vấn đề yết-ma và việc yết-ma.
YẾT-MA.
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, các Tỉ-Kheo ở Chiêm Ba nổi lên tranh chấp, sống không hòa hợp. Một Tỉ-Kheo cử tội một Tỉ-Kheo, hai Tỉ-Kheo cử tội hai Tỉ-Kheo, nhiều Tỉ-Kheo cử tội nhiều Tỉ-Kheo. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy: “Từ nay về sau, Ta không cho phép một người cử tội một người, cho đến nhiều người cử tội nhiều người”. Đoạn, Phật nói với các Tỉ-Kheo: “Từ nay về sau nên làm yết-ma.
Yết-ma gồm có: bốn loại yết-ma, hai loại yết-ma, một lần bạch một lần yết-ma, một lần bạch ba lần yết-ma, bốn người làm yết-ma, năm người làm yết-ma, mười người làm yết-ma, hai mươi người làm yết-ma, nếu thành tựu năm điều phi pháp, không hòa hợp thì làm yết-ma xong phải sám hối; nếu thành tựu năm điều như pháp, hòa hợp thì làm yết-ma xong không sám hối”.
1. Bốn loại yết-ma: gồm có: phi pháp hòa hợp yết-ma; như pháp bất hòa hợp yết-ma; như pháp hòa hợp yết-ma; bất như pháp bất hòa hợp yết-ma. Đó gọi là bốn loại yết-ma.
2. Hai loại yết-ma: Bố-tát yết-ma; cung kính yết-ma. Đó gọi là hai loại yết-ma.
3. Một lần bạch một lần yết-ma: Gồm có hai mươi tám vấn đề, đó là: 1. Xuất yết-ma; 2. Ngủ không lìa y; 3. Ngủ rời y; 4. Chỉ chỗ làm phòng; 5. Chỉ chỗ làm phòng lớn; 6. Chỉ chỗ làm phòng trước; 7. Người chia bát; 8. Người chia thăm (thẻ); 9. Thử nghiệm ngoại đạo; 10. Cột túi xách vào gậy vác đi; 11. Trông coi giường nệm; 12. Trông coi việc nấu ăn; 13. Trông coi việc phân phối người đi ăn; 14. Trông coi việc chia phòng; 15. Trông coi việc giữ y; 16. Trông coi việc thưởng y; 17. Trông coi việc chia y; 18. Trông coi việc lấy vải; 19. Trông coi việc cắt vải; 20. Trông coi việc chia vải; 21. Trông coi việc chia hoa; 22. Trông coi việc chia hương; 23. Trông coi việc chia quả; 24. Trông coi việc chia nước nóng; 25. Trông coi việc chia bánh; 26. Trông coi việc tùy ý cử tội; 27. Trông coi việc chia cháo; 28. Trông coi việc chia các vật lặt vặt. Đó gọi là 28 việc.
4. Một lần bạch ba lần yết-ma: Gồm có tám trường hợp, đó là: 1. Chiết phục; 2. Không nói; 3. Tẫn xuất; 4. Phát hỉ; 5. Cử tội; 6. Biệt trú; 7. Ma-na-đỏa; 8. Xuất tội. Đây thuộc về một lần bạch ba lần yết-ma.
5. Yết-ma gồm bốn người: Như Yết-ma Bố-tát và các trường hợp cử người thì bốn người có thể làm được. Đó gọi là yết-ma gồm bốn người.
6. Yết-ma gồm năm người: Gồm các trường hợp: Thọ Tự tứ; Thọ cụ túc ở Thâu-na biên địa; tất cả các tội Ni-tát-kì thì năm người có thể làm được. Đó gọi là yết-ma gồm năm người.
7. Yết-ma gồm mười người: Gồm các trường hợp: Tỉ-Kheo Thọ cụ túc; Tỉ-Kheo-ni thọ cụ túc, thì mười người được làm. Đó gọi là yết-ma gồm mười người.
8. Yết-ma gồm hai mươi người: Xuất tội Tỉ-Kheo, xuất tội Tỉ-Kheo-ni (?) thì hai mươi người được làm. Đó gọi là yết-ma gồm hai mươi người.
9. Làm yết-ma trong năm trường hợp phi pháp thì làm xong phải sám hối: 1. Đương sự không hiện diện; 2. Không hỏi; 3. Không nêu lỗi; 4. Làm phi pháp; 5. Không hòa hợp. Đó gọi là làm yết-ma trong năm trường hợp phi pháp, làm xong phải sám hối.
10. Làm yết-ma trong năm trường hợp như pháp, làm xong không sám hối: 1. Đương sự hiện diện; 2. Có hỏi; 3. Hỏi xong bèn nêu lỗi; 4. Làm đúng pháp; 5. Tăng hòa hợp. Đó gọi là làm yết-ma thuộc năm trường hợp đúng pháp, làm xong không sám hối.
Trường hợp nào cần hai mươi người làm yết-ma thì mười người làm không thành tựu. Trường hợp cần mười người làm yết-ma thì năm người làm không thành tựu. Trường hợp cần năm người làm yết-ma thì bốn người làm không thành tựu. Trường hợp cần một lần bạch ba lần yết-ma thì một lần tác bạch không thành tựu. Trường hợp cần một lần bạch một lần yết-ma thì một lần bạch không thành tựu. Trường hợp đơn bạch yết-ma mà làm yết-ma cầu thính thì không thành tựu.
Trái lại, cần làm yết-ma cầu thính mà tác bạch thì thành tựu. Cần tác bạch yết-ma mà bạch nhất yết-ma thì thành tựu. Cần bạch nhất yết-ma mà bạch Tam yết-ma thì thành tựu. Cần làm yết-ma với bốn người mà làm yết-ma với năm người thì thành tựu. Cần làm yết-ma với năm người mà làm yết-ma với mười người thì thành tựu. Cần làm yết-ma với mười người mà làm yết-ma với hai mươi người thì thành tựu. Đó gọi là yết-ma.
· VIỆC YẾT-MA
1. Việc yết-ma Tỉ-Kheo Thọ cụ túc; 2. Việc yết-ma Tỉ-Kheo-ni Thọ cụ túc; 3. Việc yết-ma Chi mãn; 4. Việc yết-ma già pháp thanh tịnh; 5. Việc yết-ma bất cụ túc thanh tịnh; 6. Việc yết-ma không sinh giới; 7. Việc yết-ma tội căn; 8. Việc yết-ma không xả căn; 9. Việc yết-ma xả căn; 10. Việc yết-ma hòa hợp căn.
1. Việc yết-ma Tỉ-Kheo Thọ cụ túc:
Người Thọ cụ túc cầu xin Hòa Thượng; Hòa Thượng dạy tìm y bát; dạy cầu Tăng chúng; dạy cầu giới sư; dạy cầu Thầy giáo Thọ dạy bảo ở chỗ thanh vắng. Do các việc ấy phát sinh ra yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma Thọ cụ túc của Tỉ-Kheo.
2. Việc yết-ma Tỉ-Kheo-ni Thọ cụ túc:
Khi Tỉ-Kheo-ni cho giới tử Thọ cụ túc xong, liền dẫn đến giữa chư Tăng, Tăng nên hỏi Tỉ-Kheo-ni: “Giới tử thanh tịnh, không có già nạn đấy chứ?” Giới sư Ni đáp: “Thanh tịnh”. Do các việc ấy phát sinh yết-ma và bạch yết-ma. Hai việc đó đều thuộc về trường hợp yết-ma khi Tỉ-Kheo-ni Thọ cụ túc.
3. Việc yết-ma chi mãn:
Người Thọ giới cụ túc đã cầu Hòa Thượng, Hòa Thượng đã dạy tìm y bát, dạy cầu thỉnh chúng Tăng, dạy cầu thỉnh giới sư, dạy cầu thỉnh Thầy giáo Thọ để dạy bảo ở chỗ thanh vắng, Thầy giáo Thọ dẫn giới tử vào giữa Tăng, xin Tăng Thọ cụ túc, hỏi về các già nạn, nói về bốn pháp y cứ. Do các việc đó mà phát sinh yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy được gọi là việc yết-ma Chi mãn.
4. Việc yết-ma già pháp thanh tịnh.
Việc ngăn cản hợp lệ. Do vấn đề nầy sinh ra yết-ma và bạch yết-ma. Hai việc nầy đều thuộc về việc yết-ma già pháp thanh tịnh (ngăn cản hợp lệ).
5. Việc yết-ma không đủ thanh tịnh.
Do các chi tiết không hợp lệ mà phát sinh ra yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma không đủ thanh tịnh (không hợp lệ).
6. Việc yết-ma không sinh giới.
Phá hoại Tịnh hạnh của Tỉ-Kheo-ni, sống trong tăng với tâm trộm pháp, kẻ lừa đảo, mắc tội ngũ nghịch, phạm tội Ba-la-di, Sa-di có tà kiến. Do các việc nầy phát sinh yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma không sinh giới (không phát huy giới thể).
7. Việc yết-ma tội căn:
Gồm năm Thiên tội là Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Việt-tì-ni. Do các việc nầy phát sinh ra yết-ma và bạch yết ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma tội căn.
8. Việc yết-ma không xả căn.
Tỉ-Kheo được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần, ở giữa chúng Tăng ba lần mà không bỏ lỗi lầm, do đó, phát sinh ra yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma không xả căn (bỏ gốc tội).
9. Việc yết-ma xả căn.
Người được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần, khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần liền bỏ gốc của tội. Do các việc nầy phát sinh yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma xả căn (bỏ gốc của tội).
10. Việc yết-ma hòa hợp căn:
Tỉ-Kheo Tăng tập họp phát thẻ, người không đến thì gởi dục, xướng việc Tăng hòa hợp, do các việc nầy phát sinh ra yết-ma và bạch yết-ma. Hai vấn đề nầy đều thuộc về việc yết-ma hòa hợp.
Các vấn đề vừa nêu thuộc về việc yết-ma. (Bây giờ đến các pháp yết-ma khác).
1. Yết ma chiết phục:
Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, các Tỉ-Kheo tại Chiêm-ba tranh chấp, cãi vã nhau, sống không hòa hợp. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: “Nên cho phép yết-ma chiết phục”. Pháp yết-ma chiết phục nầy gồm có tất cả năm việc, được Phật chế định tại thành Xá-vệ. Đó là: 1. Tám trường hợp quan hệ thân mật; 2. Thường thường phạm tội; 3. Đi đến những bạn bè xấu ác tại chỗ không nên đến mà đi sớm về trễ; 4. Tranh chấp cãi vã nhau; 5. Tôn kính người nhỏ tuổi.
1. Tám trường hợp quan hệ thân mật:
a. Khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, Tỉ-Kheo Từ Địa dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật (với người khác).
Dùng thân quan hệ thân mật nghĩa là cùng ngồi chung một giường, ngủ chung một giường, ăn chung một bát, mặc chung y phục, cùng đi cùng về. Đó gọi là dùng thân quan hệ thân mật.
Dùng miệng quan hệ thân mật nghĩa là hai bên có tâm ô nhiễm, nói những lời quyến luyến nhau. Đó gọi là dùng miệng quan hệ thân mật.
Dùng thân miệng quan hệ thân mật nghĩa là cùng ngồi một giường, ngủ một giường, ăn một bát, mặc y phục chung, cùng đi cùng về. Khi nói, thì nói những lời quyến luyến nhau với tâm ô nhiễm. Đó gọi là dùng thân miệng quan hệ thân mật.
Thế rồi, các Tỉ-Kheo khuyên can: “Trưởng lão Tỉ-Kheo Từ Địa, thầy đừng dùng thân quan hệ thân mật, dùng miệng quan hệ thân mật, dùng thân miệng quan hệ thân mật (với người khác)”. Khuyên can như vậy một lần không bỏ, thậm chí đến ba lần cũng không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: “Nếu Tỉ-Kheo Từ Địa nầy dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật (với người khác) mà khuyên can ba lần không bỏ, thì Tăng nên làm yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật (với người khác). Thầy yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo từ Địa dùng thân quan hệ thân mật (với người khác), đã được khuyên can ba lần mà không bỏ. Tăng nay cho Tỉ-Kheo Từ Địa pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật (với người khác). Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo từ Địa dùng thân quan hệ thân mật với người khác, Tăng đã khuyên can ba lần mà không bỏ. Nay Tăng cho Tỉ-Kheo Từ Địa pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật với người khác. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Tỉ-Kheo Từ Địa pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật với người khác, thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy.)
Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-Kheo Từ Địa pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật với người khác, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy như vậy.
Vấn đề dùng miệng quan hệ thân mật, dùng thân miệng quan hệ thân mật cũng nói như thế.
b. Lại nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, bấy giờ Ưu-đà-di dùng thân quan hệ thân mật, dùng miệng quan hệ thân mật, dùng thân miệng quan hệ thân mật với Tỉ-Kheo-ni Hiếu Sinh. Dùng thân quan hệ thân mật nghĩa là tay nắm trong tay, cùng ngồi, cùng mặc chung y phục. Đó gọi là dùng thân quan hệ thân mật.
Dùng miệng quan hệ thân mật nghĩa là nói những lời quyến luyến với nhau bằng tâm ô nhiễm. Đó gọi là dùng miệng quan hệ thân mật.
Dùng thân miệng quan hệ thân mật nghĩa là tay nắm trong tay cùng ngồi, cùng mặc chung y phục, dùng tâm ô nhiễm nói với nhau bằng những lời quyến luyến. Đó gọi là thân miệng quan hệ thân mật.
Khi ấy, các Tỉ-Kheo khuyên can: “Trưởng lão Ưu-đà-di, thầy đừng dùng thân quan hệ thân mật, dùng miệng quan hệ thân mật, dùng thân miệng quan hệ thân mật với Tỉ-Kheo-ni Hiếu Sinh”. Khuyên can một lần, hai lần, ba lần như vậy mà không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-Kheo: “Ông Ưøu-đà-di nầy với Tỉ-Kheo-ni Hiếu Sinh dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật mà can gián ba lần không bỏ thì Tăng nên cho pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Thầy Ưu-đà-di nầy với Tỉ-Kheo-ni Hiếu Sinh dùng thân quan hệ thân mật, Tăng đã khuyên can ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Ưu-đà-di pháp yết-ma chiết phục về việc dùng thân quan hệ thân mật. Đây là lời tác bạch.
Bạch xong, ba lần yết-ma, cho đến… Vì Tăng bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận như vậy.
Về miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật cũng nói như trên.
chúng sinh). Lại nữa, lúc bấy giờ Tỉ-Kheo Bạt-đà-lê với Tỉ-Kheo-ni Bạt-đà-thi-lê dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật, cũng giống như trong trường hợp Ưu-đà-di ở trên đã nói rõ.
d. Lại nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-Kheo Tô Tì Đề cùng với Tỉ-Kheo-ni Tô Tì Đề Di sống quan hệ thân mật về thân, quan hệ thân mật về miệng, quan hệ thân mật về thân miệng như trong trường hợp Tỉ-Kheo-ni Hiếu Sinh ở trên đã nói rõ.
đ. Lại nữa, bấy giờ có Tỉ-Kheo đến nhà cư sĩ cùng với vợ ông dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật. Thân quan hệ thân mật nghĩa là cùng với phụ nữ tay nắm trong tay cùng ngồi, đem hương, hoa, quả, dưa đưa cho nhau, nhờ người khác làm liên lạc. Đó gọi là dùng thân quan hệ thân mật.
Miệng quan hệ thân mật nghĩa là nói với nhau bằng những lời quyến luyến với tâm ô nhiễm. Đó gọi là miệng quan hệ thân mật.
Thân miệng quan hệ thân mật thì giống như hai trường hợp trên đã nói đầy đủ. Đó gọi là thân miệng quan hệ thân mật.
Khi ấy, các Tỉ-Kheo khuyên can: “Trưởng lão, Thầy đừng dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật với đàn bà”, khuyên can như vậy đến ba lần mà không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cũng như trường hợp Ưu-đà-di đã nói rõ ở trên.
e. Lại nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, bấy giờ có Tỉ-Kheo cùng với người bất năng nam (lại cái) dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật. Thân quan hệ thân mật nghĩa là tay nắm trong tay, cùng ngồi, cùng đi cùng về. Đó gọi là thân quan hệ thân mật.
Miệng quan hệ thân mật nghĩa là nói với nhau bằng những lời thân thiện với tâm ô nhiễm. Đó gọi là miệng quan hệ thân mật.
Thân miệng quan hệ thân mật thì như hai việc trên đã nói đầy đủ. Đó gọi là thân miệng quan hệ thân mật.
Khi ấy, các Tỉ-Kheo khuyên can: “Trưởng lão, Thầy đừng dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật với kẻ bất năng nam”. Khuyên can như vậy đến ba lần mà không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cũng như trường hợp Ưu-đà-di ở trên đã nói rõ.
g. Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Ưu-đà-di với đệ tử đồng hành, dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật, cũng như trong trường hợp Tỉ-Kheo Từ Địa ở trên đã nói rõ.
h. Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Xiển Đà dùng thân quan hệ thân mật, miệng quan hệ thân mật, thân miệng quan hệ thân mật với đồng tử, cũng như trong trường hợp Tỉ-Kheo Từ Địa ở trên đã nói rõ.
Trên đây là tám trường hợp sống quan hệ thân mật.
2. Thường thường phạm tội:
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-Kheo Thi Lợi Da Bà thường thường vi phạm các tội thuộc năm Thiên tội. Các Tỉ-Kheo khuyên can rằng: “Trưởng lão, thầy đừng vi phạm các tội thuộc năm Thiên tội”. Được khuyên can như vậy một lần không bỏ, khuyên can lần thứ hai không bỏ, khuyên can đến lần thứ ba cũng không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-Kheo: “Nếu ông Thi Lợi Da Bà thường thường phạm các tội trong năm Thiên tội, thì hãy làm pháp yết-ma chiết phục về việc thường thường phạm tội ấy. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Thi-Lợi Da Bà nầy thường thường phạm tội, đã được khuyên can ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, nay Tăng cho Tỉ-Kheo Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma chiết phục về việc thường thường phạm tội. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Thi-Lợi Da Bà thường thường phạm tội, đã được khuyên can đến ba lần mà không bỏ. Nay Tăng cho Tỉ-Kheo Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma chiết phục về việc thường thường phạm tội. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Tỉ-Kheo Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma chiết phục về việc thường thường phạm tội thì im lặng; ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy).
Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-Kheo Thi Lợi Da Bà pháp yết-ma chiết phục về việc thường thường phạm tội, vì Tăng đã im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Đó gọi là thường thường phạm tội.
3. Đi vào Thôn xóm quá sớm, đi về quá tối, làm bạn với kẻ xấu, kẻ ác, cùng đi đến những chỗ không nên đến.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-Kheo Ca-lộ đi vào Thôn xóm quá sớm, đi về quá tối, kết bạn với kẻ ác, kẻ xấu, đi đến những nơi không nên đến.
Đi đến quá sớm nghĩa là đi vào Thôn xóm khất thực quá sớm. Đi về quá tối nghĩa là rời khỏi Thôn xóm quá tối. Kết bạn với kẻ ác nghĩa là kết bạn với kẻ quản tượng, chăn ngựa, kẻ cắp, quân ăn cướp, đứa đánh xúc xắc, kết thân với những kẻ như vậy gọi là kết bạn với kẻ ác. Làm bạn với kẻ xấu thì cũng như các bạn ác kể trên. Đi đến chỗ không nên đến nghĩa là đến nhà đàn bà góa, nhà con gái lớn tuổi chưa có chồng, nhà dâm nữ, nhà kẻ lại cái, Tỉ-Kheo-ni bị tiếng xấu, Sa-di-ni bị tiếng xấu. Đó gọi là đến chỗ không nên đến.
Trong các trường hợp ấy, các Tỉ-Kheo khuyên can: “Trưởng lão, Thầy đừng ra đi quá sớm, trở về quá tối, (cho đến… ) đi tới chỗ Sa-di-ni bị tiếng xấu”. Nhưng khuyên can một lần, hai lần, ba lần vẫn không bỏ. Do vậy, các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỉ-Kheo: “Nếu Tỉ-Kheo Ca Lộ ra đi quá sớm, trở về quá tối, cho đến đi tới những chỗ không nên đến, rồi được khuyên can đến ba lần mà không bỏ, thì Tăng nên làm yết-ma chiết phục về việc đi vào Thôn xóm quá sớm. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Ca-Lộ đi vào Thôn xóm quá sớm, rồi được khuyên can đến ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-Kheo Ca Lộ pháp yết-ma chiết phục về việc đi vào Thôn xóm quá sớm nầy. Đây là lời tác bạch. (bạch xong, ba lần yết-ma, cho đến) Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng, việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Vấn đề trở về quá tối, kết bạn với kẻ xấu, kẻ ác, đi đến những chỗ không nên đến (cách khuyên can và làm yết-ma) cũng như thế.
4. Tranh chấp cãi vã nhau.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-Kheo Mã Túc tự cao, tự đại tranh luận cãi vã với người khác. Các Tỉ-Kheo bèn khuyên can: “Trưởng lão Tỉ-Kheo Mã Túc, Thầy đừng có tranh cãi”. Khuyên can như vậy một lần không bỏ, hai lần, ba lần cũng không bỏ. Các Tỉ-Kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-Kheo: “Khi năm điều sau đây hiện hữu thì biết là sự tranh cãi sẽ phát sinh. Đó là: 1. Yết-ma đúng pháp mà nói là phi pháp; 2. Tập họp đúng pháp mà nói là phi pháp; 3. Xuất tội đúng pháp mà nói là phi pháp; 4. Xả vật đúng pháp mà nói là phi pháp; 5. Kết tội đúng pháp mà nói là phi pháp. Đó gọi là năm điều phi pháp. Trái với năm điều trên thì gọi là đúng pháp. Các Tỉ-Kheo nên khuyên bảo như sau: “Này Trưởng lão, Tỉ-Kheo cần phải thành tựu năm pháp sau đây khi vào trong chúng. Đó là:1. Nói nhỏ nhẹ khi vào trong chúng; 2. Khi nghe yết-ma phải tin tưởng; 3. Đã tin tưởng thì phải tuân hành; 4. Nếu thấy yết-ma không đúng pháp mà không thể ngăn cản được thì nên gởi dục; 5. Nếu không thể gởi dục thì nên cho Tỉ-Kheo ngồi bên cạnh biết là mình không bằng lòng”. Khi Tỉ-Kheo nghe những lời khuyên bảo ấy liền nói: “Tôi biết nói năng khéo léo, vì sao phải nói nhỏ khi vào trong chúng? Tôi cũng là kẻ đa văn, vì sao nghe yết-ma liền phải tin? Tôi biết rõ phép tắc, vì sao nghe liền phải tuân hành? Tôi cũng thông thạo yết-ma, vì sao nghe yết-ma không đúng pháp lại không thể ngăn cản mà phải gởi dục? Tôi đã đến được, vì sao phải báo người ngồi bên cạnh biết là mình không bằng lòng? Tôi sẽ ngăn cản”.
Phật nói với các Tỉ-Kheo: “Khi năm pháp hiện hữu khiến sự tranh chấp phát sinh, thì Tăng nên làm yết-ma chiết phục. Năm pháp đó là: 1/Tự cao; 2. Tính tình thô lỗ, hung ác; 3. Nói những lời vô nghĩa; 4. Nói không đúng lúc; 5. Không thân cận với người thiện. Đó gọi là năm pháp hiện hữu Tăng nên làm yết-ma chiết phục. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Mã Túc tự cao, tranh luận cãi vã với người khác, được khuyên can ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Mã Túc về tính tự cao. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Mã Túc tự cao, tranh luận cãi vã với người khác, đã được khuyên can ba lần mà không bỏ. Nay Tăng làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Mã Túc về tính tự cao. Các đại đức nào bằng lòng Tăng làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Mã Túc về tính tự cao thì im lặng. Ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy).
Tăng đã bằng lòng làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Mã Túc về tính tự cao xong, vì Tăng im lặng. Việc nầy tôi ghi nhận như vậy.
Bốn việc sau cũng nói như thế.
5. Tôn kính người nhỏ tuổi.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tỉ-Kheo Xiển Đà độ một chàng trai trẻ xuất gia, rồi tự mình lo cung cấp các thứ. Buổi sáng sớm Thầy đến vấn an, đem đổ đồ đại tiểu tiện và ống nhổ cho y, rồi đem để lại chỗ cũ. Thầy lại xoa bóp thân thể, trao cho y bát, rồi cùng vào xóm làng, nhường cho y đi trước. Khi đến nhà đàn việt, Thầy lại bảo y ngồi ở chỗ cao, nhận phần cúng dường trước. Khi y ăn xong, Thầy lấy bát đem rửa sạch rồi cất lại chỗ cũ, đồng thời nhuộm y, hơ bát, trải giường nệm cho y. Khi đêm đến, Thầy thắp đèn, đem ống nhổ và bô đại tiểu tiện đến cho y. Các Tỉ-Kheo thấy thế bèn khuyên can: “Nầy trưởng lão, thầy đừng cung cấp cho người trẻ, người trẻ phải cung cấp cho thầy chứ”. Thầy đáp: “Đúng như trưởng lão nói. Nhưng chàng trai trẻ nầy trước kia vốn là nhạc sĩ xuất gia, cho nên tôi rất ái mộ, tôn kính và tự thấy hổ thẹn, phải lo cung cấp cho y”.
Các Tỉ-Kheo khuyên can như vậy một lần không bỏ, rồi khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba cũng không bỏ. Do thế, các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Xiển Đà đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi đầy đủ sự việc kể trên:
—Ông có việc đó thật không?
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Này kẻ ngu si! Đối với Như Lai, ông không ái mộ, tôn kính, hổ thẹn, tùy thuận, mà trái lại, đối với anh chàng tuổi trẻ, ông lại tỏ ra ái mộ, tôn kính, hổ thẹn, tùy thuận như thế.
Đoạn, Phật bảo các Tỉ-Kheo: “Vì Tỉ-Kheo Xiển Đà ái mộ người còn trẻ, vậy Tăng nên làm yết-ma chiết phục về việc ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà ái mộ, tôn kính cung cấp hầu hạ người còn trẻ, đã được khuyên can ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ, đã được khuyên can ba lần mà không bỏ. Tăng nay làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ. Các đại đức nào bằng lòng Tăng làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là lần yết-ma thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng làm yết-ma chiết phục Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc ái mộ, cung cấp cho người còn trẻ, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Về các vấn đề tôn kính, hổ thẹn, tùy thuận cũng nói như thế. Đó gọi là yết-ma chiết phục.
2. Yết-ma không nói chuyện.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-Kheo Mã Túc đã được Tăng làm yết-ma chiết phục mà không tuân hành, việc đáng làm mà không làm, việc đáng bỏ mà không bỏ. Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: “Nếu Tỉ-Kheo Mã Túc đã được Tăng làm yết-ma chiết phục mà không tuân hành, việc nên làm thì không làm, việc nên bỏ thì không bỏ, thì Tăng nên làm yết-ma không nói chuyện. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Mã Túc nầy đã được Tăng làm yết-ma chiết phục mà không tuân hành, việc nên làm thì không làm, việc nên bỏ thì không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma không nói chuyện với Tỉ-Kheo Mã Túc. Đây là lời tác bạch. (Bạch xong, ba lần yết-ma, cho đến) Tăng bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ có một người lẩn thẩn xuất gia, thường phạm các giới nhỏ như ăn riêng chúng, ăn nhiều chỗ, cất thức ăn mà ăn, cùng ăn chung bát với người khác, ngủ cùng phòng với phụ nữ, ngủ chung với người khác quá ba đêm, cùng ngủ chung một giường, cùng ngồi một giường, ăn trái cây không hợp lệ, nhận thịt sống, nhận thóc, nhận vàng bạc. Các Tỉ-Kheo bèn khuyên can: “Trưởng lão, không nên làm những việc đó”. Thầy đáp: “Trưởng lão đã bảo tôi, tôi sẽ tuân hành”. Các Tỉ-Kheo tự nhủ: “Ông Thầy lẩn thẩn nầy có tâm tu hành”. Nhưng sau đó, Thầy thường thường phạm các tội nhỏ như ăn riêng chúng, cho đến nhận vàng bạc. Các Tỉ-Kheo lại khuyên can: “Nầy ông thầy lẩn thẩn, Thầy không nên làm những việc ấy”. Thầy đáp: “Trưởng lão đã cho tôi biết, tôi sẽ tuân hành”. Thế nhưng, sau đó lại thường thường vi phạm. Các Tỉ-Kheo tự nhủ: “Ông Thầy lẩn thẩn nầy xuất gia mà không biết tri ân, không thuận theo lời chỉ bảo, quanh co, không thật, không muốn tu học”. Rồi các Tỉ-Kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: “Ông Thầy lẩn thẩn ấy xuất gia mà không biết tri ân, không thuận theo lời chỉ bảo, vậy Tăng nên làm yết-ma không nói chuyện. Người làm yết-ma nên nói như sau
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Ông Thầy lẩn thẩn nầy xuất gia mà không biết tri ân, không thuận theo lời chỉ bảo. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng làm yết-ma không nói chuyện với ông thầy lẩn thẩn nầy. Đây là lời tác bạch. (bạch xong, ba lần yết-ma, cho đến) Vì Tăng bằng lòng nên im lặng, tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Đó gọi là pháp yết-ma không cùng nói chuyện.
3. Pháp yết-ma tẫn xuất.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ nhóm sáu Tỉ-Kheo đang ở tại ấp Ca Thi, làm những việc trái oai nghi, nói những lời trái oai nghi, hành động và nói năng trái oai nghi; thân làm điều tai hại, miệng nói lời tai hại, thân miệng gây tai hại; thân làm việc tà vạy, miệng nói điều tà vạy, thân miệng đều tà vạy, như trong giới Tăng-già-bà-Thi-sa, khi nhóm sáu Tỉ-Kheo ở thôn Hắc Sơn trên kia đã nói rõ. Đó gọi là yết-ma tẫn xuất.
4. Pháp yết-ma phát hỉ.
Pháp yết-ma nầy gồm có các trường hợp: 1. Hỉ-Ưu Bà Di; 2. Xá-na-giai; 3. Du Ngao Ngư tử; 4. Ca-lộ; 5. Ma-ha-nam; 6. Nhóm sáu Tỉ-Kheo.
1. Hỉ Ưu Bà Di.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, Nan Đà du hành các nước, rồi trở về Xá-vệ. Vào buổi sớm, thầy khoác y thường mặc, cầm bát, đi đến nhà Ưu Bà Di. Hỉ Ưu Bà Di trông thấy, rất hoan hỉ, đon đả chào hỏi: “Lành thay sư phụ! Vì sao mà ít đến quá vậy?”, liền mời ngồi. Ngồi xong, Nan Đà nói:
—Tôi ít khi đến, vậy bà định cúng dường thứ gì đây?
—Tùy Thầy cần gì thì cúng dường nấy, hoặc bữa ăn trước, hoặc bữa ăn sau, hoặc cháo, bánh, trái, tùy Thầy cần thứ gì, thì con sẽ làm.
—Tôi cần bữa ăn trước, hãy nấu cho ngon.
—Y theo lời dạy, con sẽ nấu thật ngon, xin thầy sáng mai hãy đến sớm.
Nan Đà nói thế rồi, liền ra đi. Sau đó, Ưu Bà Di sáng sớm thức dậy, sắm sửa bữa ăn sớm ngon lành, trải chỗ ngồi, rồi lần hồi chờ đợi. Nhưng Nan Đà vì nhiều việc nên quên mất, không đến. Ưu Bà Di chờ đợi đã quá giờ mà không thấy đến, bèn chọn những thức ăn ấy thứ nào để dành được thì để dành, thứ nào không để dành được thì ăn. Đợi như thế đến ngày thứ hai, thứ ba vẫn không thấy đến, liền đem ra ăn hết. Tới ngày Thứ tư, Nan Đà mới đến, hỏi: “Ưu Bà Di khỏe chứ?”. Ưu Bà Di nổi sùng, nói:
—Sư phụ đã nhận lời mời của con đến ăn bữa ăn sớm, vì sao không tới?
—Ưu Bà Di tức giận sao?
—Tức giận.
—Nếu vậy, tôi xin sám hối.
—Thầy hãy đến sám hối với đức Thế Tôn.
Nan Đà bèn đi đến sám hối với Phật. Phật hỏi: “Vì cớ gì mà sám hối?”. Nan Đà liền đem sự việc kể trên bạch đầy đủ với Phật. Phật khiển trách: “Nầy kẻ ngu si! Ưu Bà Di nầy đối với Phật và các Tỉ-Kheo Tăng không hề tiếc rẻ một thứ gì. Vậy, vì sao ông lại nhiễu loạn người ta?”. Thế rồi, Phật bảo các Tỉ-Kheo: “Ưu Bà Di nầy là một người có niềm tin kiên cố, thế mà Nan Đà đã nhiễu loạn khiến cho bà không vui. Vậy nay Tăng nên cho Nan Đà pháp yết-ma phát hỉ. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Nan Đà đã nhiễu loạn người thế tục sinh tâm không hoan hỉ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Nan Đà pháp yết-ma làm cho người thế tục sinh tâm hoan hỉ. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Nan Đà đã nhiễu loạn người thế tục, làm cho họ không hoan hỉ. Tăng nay cho Nan Đà pháp yết-ma làm cho người thế tục sinh tâm hoan hỉ. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Nan Đà pháp yết-ma làm cho người thế tục sinh tâm hoan hỉ thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất .(lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho Nan Đà pháp yết-ma làm cho người thế tục sinh tâm hoan hỉ, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Đó gọi là hỉ Ưu Bà Di (làm cho Ưu Bà Di sinh tâm hoan hỉ).
2. Xá-na-giai.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ, cư sĩ Chất Đế Lệ mời Tăng về cúng dường thuốc. Nhóm sáu Tỉ-Kheo nghe thế, liền bảo nhau: “Cư sĩ mời Tăng về cúng dường thuốc, chúng ta hãy đến thử nghiệm ông ta”. Thế rồi đến giờ khất thực, bèn khoác y thường mặc, cầm bát đi đến nhà ấy, chào hỏi nhau xong, liền hỏi:
—Tôi nghe nói cư sĩ mời Tăng về cúng dường thuốc, có thật thế không?
—Đúng như vậy. Thầy cần thuốc sao?
—Tôi cần một gánh xá-na-giai.
—Đợi con tìm có rồi sẽ đưa.
—Kỳ quái, không chuẩn bị thuốc trước mà lại mời Tăng? Ông không biết sao? thuốc của một Tỉ-Kheo uống bằng Thức ăn của con voi chúa to lớn trên núi Tuyết. Ông không thực tâm cúng dường, mà chỉ cầu danh.
—Thưa Thầy, trong kho của nhà vua cũng chưa đủ chừng ấy thuốc, huống gì nhà con, đợi con tìm có rồi sẽ đưa thầy.
—Cho hay không cho tùy ý ông.
Nói xong, Thầy liền bỏ đi. Sau đó, cư sĩ sai người đến xóm Tượng, nước Câu Lân Đề, tìm được Xá Na Giai, bèn đến thưa: “Thưa thầy, con đã tìm được Xá Na Giai Thầy hãy tới lấy”. Nghe nói thế, họ bèn nhìn nhau cười khúc khích. Cư sĩ liền chê trách:
—Vì sao lại nhìn nhau cười khúc khích mà không lấy? Những vật sở hữu trong nhà con, đối với Phật và Tỉ-Kheo Tăng không hề tiếc bất cứ một thứ gì, tôn giả vì sao lại thử con?
—Cư sĩ nổi giận sao?
—Nổi giận chứ sao nữa.
—Nếu nổi giận thì tôi xin sám hối.
—Thầy hãy đến đức Thế Tôn mà sám hối.
Như trường hợp hỉ Ưu Bà Di ở trên đã nói rõ.
3. Du ngao ngư tử.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ, cư sĩ Chất Đế Lệ, sắm một trăm món ăn dùng để đãi Tăng. Khi Tăng ăn xong trở về tinh xá, cư sĩ bèn ra lệnh cho vợ con trong nhà: “Hãy xử lý các thức ẩm thực còn thừa, đem cho các nhà láng giềng, tôi muốn đến thăm viếng đức Thế Tôn”.
Lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-Kheo đang ở trước cổng tinh xá Kỳ-Hoàn, bàn luận về những việc thế tục. Cư sĩ thấy thế, suy nghĩ: “Đây là những kẻ phi giới luật, nhưng nếu ta không đến chào thì họ sẽ oán hận”, liền đi tới chào hỏi chúc tụng. Tỉ-Kheo bèn đáp:
—Lành thay đàn việt đã đến đây, giống như thớt voi lớn.
Cư sĩ liền hỏi:
—Hôm nay tôn giả có đến thọ trai nhà con không?
—Có đến thọ trai.
—Thưa tôn giả, thức ăn có vừa ý không?
—Thật tuyệt vời, chỉ thiếu có một thứ thôi.
—Thiếu thứ gì vậy?
—Nếu được Du diêm ngao ngư tử – một thức ăn nổi danh thì thí chủ được tiếng tốt trọn vẹn.
—Thưa tôn giả, trước đây con không biết. Nếu biết trước thì con sẽ sắm thật nhiều, để cho mỗi người một bát. Nhưng thưa tôn giả, hãy nghe con nói ví dụ: Trong thời quá khứ, có một bầy gà sống trong rừng Nại Lâm, rồi có một con chồn, bắt ăn thịt dần các con gà trống, cuối cùng, chỉ còn một con gà mái. Sau đó, có con quạ đến giao phối, bèn sinh một gà con. Khi gà con kêu, người chủ bèn đọc kệ:
“Gà nầy chẳng giống ai,
Cha hoang, mẹ dân dã.
Cả hai hợp lại sinh,
Chẳng quạ, cũng chẳng gà.
Nếu muốn học tiếng cha,
Thì là do mẹ sinh.
Nếu học theo tiếng mẹ,
Thì cha lại là quạ.
Học quạ thành tiếng gà,
Học gà thành tiếng quạ,
Quạ, gà đều cùng học,
Cả hai hóa bất thành”.
Cũng vậy đó tôn giả, thầy không phải là người thế tục mà cũng chẳng phải kẻ xuất gia.
—Cư sĩ nổi giận sao?
—Nổi giận.
—Nếu nổi giận, thì tôi xin lỗi.
—Hãy đến Thế Tôn mà xin lỗi.
Thế rồi, nhóm sáu Tỉ-Kheo bèn đi đến chỗ Phật, hướng về Ngài mà sám hối. Phật liền hỏi: “Vì cớ gì mà sám hối?”. Nhóm sáu Tỉ-Kheo bèn đem sự kiện trên bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật khiển trách: “Nầy kẻ ngu si, những vật sở hữu trong nhà của cư sĩ Chất-đế-lệ, đối với Phật và các Tỉ-Kheo Tăng, ông không hề luyến tiếc bất cứ một thứ gì, vì sao lại quấy nhiễu ông?” Đoạn, Phật nói với các Tỉ-Kheo: “Ông cư sĩ nầy dùng túc mạng Thông, thấy nhóm sáu Tỉ-Kheo ngày xưa từng làm con của gà và quạ, cho nên nói như thế. Vậy, Tăng nên cho nhóm sáu Tỉ-Kheo pháp yết-ma làm cho người thế tục vui lòng. Cách làm giống như trong trường hợp làm vui lòng Ưu Bà Di ở trên đã nói rõ.”
4. Ca-lộ.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ có Tỉ-Kheo đến giờ khất thực, liền khoác y, cầm bát vào thành khất thực, lần lượt đến cổng một nhà kia, thấy ông chồng đang ngồi giữa sân, bảo bà vợ:
—Bà hãy cúng dường Thức ăn cho người xuất gia.
—Xuất gia theo đạo nào?
—Xuất gia theo dòng họ Thích.
—Không cho.
—Vì sao không cho?
—Vì người ấy phi phạm hạnh.
Lúc ấy, Tỉ-Kheo nói:
—Này chị em, tôi không phải là người phi phạm hạnh.
—Tôn giả Ca Lộ còn không thể tu phạm hạnh, huống gì là ông mà có thể tu phạm hạnh được sao?
Tỉ-Kheo nghe lời nói ấy, cảm thấy buồn bực không vui, bèn không đi khất thực, trở về tọa thiền. Đến xế, thầy xuất Thiền, thấy thân thể đói khát rã rời, bèn đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng sang một bên. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi:
—Này Tỉ-Kheo, vì sao ông có vẻ đói lả như thế?
—Vì con không được ăn, bạch Thế Tôn.
—Ông không thể đi khất thực sao?
Thầy bèn đem sự kiện kể trên bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-Kheo: “Tỉ-Kheo Ca Lộ nầy đã làm cho người thế tục không vui, vậy Tăng nên làm yết-ma khiến Ca-lộ phải làm cho người thế tục hoan hỉ, như trong trường hợp làm vui lòng Ưu Bà Di ở trên kia đã nói rõ. Đó gọi là Ca Lộ”.
5. Ma-ha-nam.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ một người họ Thích là Ma Ha Nam mời Tăng về nhà cúng dường thuốc. Khi nghe thế, Nan Đà, Ưu Ba Nan Đà bảo nhau: “Chúng ta đến thử ông nầy chơi”. Thế rồi, đến giờ khất thực họ bèn khoác y, đi đến nhà ấy, cùng chào hỏi, rồi nói:
—Tôi nghe nói đàn việt định mời Tăng về cúng dường thuốc, có đúng thế không?
—Đúng vậy. Nhưng tôn giả cần thuốc sao?
—Vâng. Tôi cần chừng ấy bình sữa, chừng ấy bình dầu, chừng ấy bình mật, chừng ấy đường phèn, chừng ấy rễ thuốc, lá thuốc, hoa thuốc, trái thuốc.
—Thưa tôn giả, ngay ngày hôm nay thì không thể có chừng ấy thuốc, phải tìm rồi mới đưa được.
Nan Đà liền nói:
—Sao kỳ vậy, Đàn việt không chuẩn bị thuốc trước mà lại mời các Tỉ-Kheo Tăng. Ông không biết sao, thuốc một Tỉ-Kheo uống bằng Thức ăn của một thớt voi lớn trên núi tuyết kia chứ? Ông không muốn cúng dường mà chỉ mong cầu danh thôi.
—Thưa tôn giả, trong kho của vua còn chưa đủ chừng ấy thuốc huống gì nhà con, để con tìm đủ rồi con sẽ đưa cho.
—Cho hay không cho mặc ý ông.
Nói thế xong, thầy liền bỏ đi. Sau đó, cư sĩ tìm được thuốc, liền đến bạch: “Thưa tôn giả, hôm nay Thầy có thể đến lấy”. Hai người nghe thế, bèn nhìn nhau cười chúm chiếm. Đàn việt liền chê trách: “Vì sao lại thử con rồi nhìn nhau mà cười? Khi chưa có thì đến đòi gấp rút, bây giờ tìm có rồi thì lại không lấy”. Nan Đà nói:
—Đàn việt nổi giận sao?
—Nổi giận.
—Nếu nổi giận thì tôi xin sám hối.
—Thầy hãy đến Thế Tôn mà sám hối.
Nan Đà bèn đi đến chỗ Phật sám hối. Phật hỏi: “Vì cớ gì mà sám hối?”. Thầy liền đem sự việc trên bạch đầy đủ với Thế Tôn. Đức Phật khiển trách: “Nầy kẻ ngu si. Những vật sở hữu trong nhà của Ma-ha-nam, đối với Phật và các Tỉ-Kheo Tăng, ông không hề tiếc rẻ một thứ gì, vì sao lại quấy nhiễu ông ta?” Đoạn, Phật nói với các Tỉ-Kheo: “Tăng nên cho Nan Đà pháp yết-ma làm cho người thế tục vui lòng, như trường hợp làm vui lòng Ưu Bà Di ở trên đã nói rõ”. Đó gọi là Ma Ha Nam.
6. Nhóm sáu Tỉ-Kheo.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ nhóm sáu Tỉ-Kheo ở tại ấp Ca Thi, thân trái oai nghi, miệng trái oai nghi, thân miệng trái oai nghi; thân làm hại, miệng làm hại, thân miệng làm hại; thân tà mạng, miệng tà mạng, thân miệng tà mạng, cho đến… làm cho người thế tục không hoan hỉ.
Phật liền bảo các Tỉ-Kheo: “Tăng nên cho nhóm sáu Tỉ-Kheo pháp yết-ma làm cho người thế tục vui lòng, như trường hợp làm vui lòng Ưu Bà Di ở trên đã nói rõ. Đó gọi là nhóm sáu Tỉ-Kheo.
Tóm lại, trên đây là sáu pháp yết-ma phát hỉ.
“Thọ cụ túc phi pháp,
Chi mãn, không Thanh tịnh.
Yết-ma, sự yết-ma,
Chiết phục, không nói chuyện.
Tẫn xuất, phát hoan hỉ.
Hết Bạt-cừ thứ nhất”.
5. Yết-ma cử tội.
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội trong năm Thiên tội. Các Tỉ-Kheo liền nói:
—Trưởng lão, Thầy có thấy tội nầy không?
—Không thấy. Thầy hỏi tôi thấy hay không thấy để làm gì?
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỉ-Kheo: “Tỉ-Kheo Xiển Đà nầy thường phạm các tội trong năm Thiên tội mà tự nói không thấy tội thì Tăng nên làm yết-ma cử tội không thấy tội. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội trong năm Thiên tội mà tự nói không thấy tội. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay làm yết-ma cử tội Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc không thấy tội. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội trong năm Thiên tội mà tự nói không thấy tội, Tăng nay làm yết-ma cử tội Tỉ-Kheo Xiển Đà về việc không thấy tội. Đại đức nào bằng lòng thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng làm yết-ma cử tội Tỉ-Kheo Xiển Đàvề việc không thấy tội, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Sau khi Tăng làm yết-ma cử tội xong, Xiển Đà nói với các Tỉ-Kheo: “Thưa trưởng lão, tôi thấy những việc cần phải làm đối với tội ấy nên đã tùy thuận chấp hành. Nay xin Tăng thương xót xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội cho tôi”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỉ-Kheo: “Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội trong năm Thiên tội mà tự nói không thấy. Vì muốn cho ông được lợi ích, Tăng đã làm pháp yết-ma cử tội. Những việc cần làm, ông đã tùy thuận chấp hành. Tự nói đã thấy tội. Vậy Tăng nên xả pháp yết-ma cử tội về việc không thấy tội. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội trong năm Thiên tội, mà tự nói không thấy tội. Vì muốn cho Thầy được lợi ích nên Tăng đã cho pháp yết-ma cử tội về việc không thấy tội. Những việc cần làm Thầy đã tùy thuận chấp hành. Nay tự nói đã thấy tội. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-Kheo Xiển Đà vào giữa Tăng xin xả pháp yết-ma cử tội về việc không thấy tội.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà muốn vào giữa Tăng xin xả pháp yết-ma cử tội về việc không thấy tội. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Thế rồi, người này nên vào giữa Tăng xin như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tôi là Tỉ-Kheo Xiển Đà, thường phạm các tội trong năm Thiên tội, mà nói không thấy. Vì muốn cho tôi được lợi ích, Tăng đã làm pháp yết-ma cử tội không thấy tội. Những gì cần làm, tôi đã tùy thuận chấp hành. Tự nói đã thấy tội. Nay theo Tăng xin xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội. Kính mong đại đức Tăng thương xót, xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội cho tôi. (xin như vậy ba lần).
Thế rồi, người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội thuộc năm Thiên tội, mà tự nói không thấy. Vì muốn cho Thầy được lợi ích, Tăng đã làm pháp yết-ma cử tội không thấy tội. Những gì cần làm Thầy đã tùy thuận chấp hành. Nay thầy tự nói đã thấy tội, nên theo Tăng xin xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội cho Tỉ-Kheo Xiển Đà. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội thuộc năm Thiên tội, mà tự nói không thấy. Vì muốn cho Thầy được lợi ích, Tăng đã làm yết-ma cử tội không thấy tội. Những gì cần làm Thầy đã tùy thuận chấp hành. Nay tự nói đã thấy tội, nên theo Tăng xin xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội. Các đại đức nào bằng lòng Tăng xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội cho Tỉ-Kheo Xiển Đà thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy).
Tăng đã bằng lòng xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội cho Tỉ-Kheo Xiển Đà xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Sau khi Tăng đã xả pháp yết-ma cử tội không thấy tội xong, các Tỉ-Kheo liền nói với Xiển Đà: “Này trưởng lão, tội nầy nên làm đúng như pháp”. Thầy đáp: “Ông dạy tôi làm đúng như pháp để làm gì? Tôi không thể làm”.
Các Tỉ-Kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỉ-Kheo: “Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội thuộc năm Thiên tội mà không thể cải hóa đúng như pháp, thì Tăng nên làm yết-ma về việc phạm tội mà không thể cải hóa. Người làm yết-ma nên nói như sau:
—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội thuộc năm Thiên tội mà không chịu cải hóa đúng pháp. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-Kheo Xiển Đà pháp yết-ma cử tội về việc phạm tội mà không chịu cải hóa đúng như pháp. Đây là lời tác bạch.
Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-Kheo Xiển Đà thường phạm các tội thuộc năm Thiên tội mà không chịu cải hóa đúng như pháp. Tăng nay cho Tỉ-Kheo Xiển Đà pháp yết-ma cử tội về việc phạm tội mà không chịu cải tạo đúng như pháp. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cho Tỉ-Kheo Xiển Đà pháp yết-ma cử tội về việc phạm tội mà không chịu cải hóa đúng như pháp thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế).
Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-Kheo Xiển Đà pháp yết-ma về việc phạm tội mà không chịu cải hóa đúng như pháp xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc nầy là như vậy.
Hết quyển thứ hai mươi bốn.