LUẬT MA HA TĂNG KỲ

NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ 4.

VIỆC CỬ TỘI (NÊU TỘI).

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba đấu tranh, cãi vã nhau, sống không hòa hợp. Một Tỉ-kheo nêu tội một Tỉ-kheo, hai Tỉ-kheo nêu tội hai Tỉ-kheo, nhiều Tỉ-kheo nêu tội nhiều Tỉ-kheo, nói như sau:

—Tôi nêu tội trưởng lão, tôi nêu tội trưởng lão.

Bấy giờ tôn giả Ưu-ba-li bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn:

—Bạch Thế Tôn, các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba khởi lên việc phi pháp. Một Tỉ-kheo nêu tội một Tỉ-kheo, cho đến nhiều Tỉ-kheo nêu tội nhiều Tỉ-kheo. Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu việc thì Tỉ-kheo được nêu tội người khác?

Phật nói với Ưu-ba-li:

—Khi có ba việc, ba nhân duyên thì Tỉ-kheo được nêu tội người khác.

Thế nào là ba việc? Đó là: Giới không Thanh tịnh, kiến không Thanh tịnh, mạng không Thanh tịnh.

Thế nào là ba nhân duyên? Đó là: Thấy, nghe và nghi. Đó gọi là ba.

Lại nữa, khi bản thân Tỉ-kheo thành tựu năm pháp thì được nêu tội người khác. Thế nào là năm pháp? Đó là:

1. Sự việc có thật không hư dối;

2. Nói đúng lúc, không phải không đúng lúc; 3. Vì lợi ích, không phải không lợi ích;

4. Nói nhỏ nhẹ, không nói thô lỗ;

5. Vì lòng từ, không phải vì giận dữ. Đó gọi là năm pháp được nêu tội người khác.

Lại nữa, thành tựu năm pháp, được nêu tội người khác. Thế nào là năm? Đó là:

1. Thân nghiệp thanh tịnh;

2. Khẩu nghiệp thanh tịnh;

3. Mạng sống chân chánh;

4. Am tường luận tạng;

5. Thông thạo Luật tạng.

Này Ưu-ba-li, nếu thân nghiệp không thanh tịnh mà nêu tội người khác, thì người đó nên nói:—Này trưởng lão! Thân nghiệp thầy không thanh tịnh, vì sao nêu tội người khác? Trước hết nên làm cho thân nghiệp mình thanh tịnh rồi mới nêu tội người khác.

Thế nên, này Ưu-ba-li, muốn nêu tội người khác, trước hết thân nghiệp mình phải thanh tịnh, khẩu nghiệp phải thanh tịnh, và mạng sống phải chân chánh. Nếu người nào ít nghe luận điển mà cử tội người khác thì người đó nên nói:

—Này trưởng lão! Vì sao Thầy ít nghe luận điển mà cử tội người khác? Lành thay trưởng lão, trước hết Thầy hãy nghe nhiều luận điển rồi mới cử tội người khác.

Thế đó Ưu-ba-li, khi muốn nêu tội ai, trước hết mình phải nghe nhiều luận điển. Nếu ít nghe Luật tạng mà muốn nêu tội người khác thì người ấy nên nói:

—Này trưởng lão! Vì sao Thầy ít nghe Luật tạng mà nếu tội người khác? Trưởng lão cũng không biết do việc gì mà chế giới này, tại thành ấp xóm làng quốc gia nào chế giới này. Lành thay trưởng lão! Khi muốn nêu tội ai, trước hết Thầy phải nghe nhiều Luật tạng rồi mới nêu tội họ.

Thế nên, này Ưu-ba-li! Khi muốn nêu tội ai, trước hết phải nghe nhiều Luật tạng.

Đó gọi là bản thân mình phải thành tựu năm pháp, mới được nêu tội người khác.

Lại nữa, này Ưu-ba-li, có năm trường hợp nêu tội người phi pháp. Thế nào là năm? Đó là:

1. Có trường hợp mắng rồi mới nêu tội;

2. Có trường hợp nêu tội rồi mới mắng;

3. Có trường hợp vừa nêu tội, vừa mắng;

4. Có trường hợp mắng mà không nêu tội;

5. Có trường hợp nêu tội mà không mắng.

1. Mắng rồi mới nêu tội : Trước tiên mắng xối xả rồi mới nêu ra một tội nào đó trong năm Thiên tội. Đó gọi là mắng rồi mới nêu tội.

2. Nêu tội rồi mới mắng : Trước hết nêu ra một tội nào đó trong năm Thiên tội, rồi mới mắng. Đó gọi là nêu tội rồi mới mắng.

3. Vừa nêu tội vừa mắng : Mắng xối xả, rồi nói: “Ông phạm Ba-la-di”. Mắng xối xả, rồi nói: “Ông phạm tội Tăng già bà thi sa cho đến tội Việt-tì-ni”. Đó gọi là vừa nêu tội vừa mắng.

4. Mắng mà không nêu tội: Mắng nhiếc đủ thứ mà không nêu tội. Đó gọi là mắng mà không nêu tội.

5. Nêu tội mà không mắng: Nêu một tội nào trong năm Thiên tội mà không mắng mỏ? Đó gọi là nêu tội mà không mắng.

Trong đây, các trường hợp trước mắng rồi sau nêu tội; nêu tội rồi mới mắng; vừa nêu tội vừa mắng thì Tăng không nên hỏi, không nên chấp nhận. Trái lại, trường hợp nêu tội mà không mắng thì Tăng nên kiểm tra.

Khi muốn nêu tội ai, trước hết nên nói:

—Này trưởng lão! Tôi muốn nêu một sự việc Thầy có chịu nghe không?

Bị cáo nên nói:

—Thầy muốn nêu tội thì được thôi.

Nếu không hỏi bị cáo có chịu nghe không mà nêu tội thì phạm tội Việt-tì-ni.

Này Ưu-ba-li, nếu bị cáo có giới thể không thanh tịnh mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì sự lợi ích, nói thô lỗ không nhỏ nhẹ, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế.

Lại nữa, nếu bị cáo có kiến giải không thanh tịnh, mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì sự lợi ích, nói thô lỗ không dịu dàng, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế.

Lại nữa, nếu bị cáo có mạng sống không thanh tịnh, mình không thấy, không rõ sự thật, không đúng lúc, không vì lợi ích, nói thô lỗ không dịu dàng, giận dữ, không có lòng từ mà nêu tội người ta thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế.

Này Ưu-ba-li, nếu bị cáo có giới Thể không thanh tịnh mình thấy đúng sự thật, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về việc nghe, nghi cũng như thế.

Nếu bị cáo có kiến giải không thanh tịnh mà khi mình thấy đúng, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận, mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế.

Nếu bị cáo có mạng sống không thanh tịnh, khi mình thấy đúng, vì lợi ích, nói dịu dàng không thô lỗ, có từ tâm, không giận dữ, nhưng không nói với bị cáo, bị cáo không ưng thuận mà nêu tội, thì phạm tội Việt-tì-ni. Về vấn đề nghe, nghi cũng như thế.

Lại nữa, người nào có năm tính xấu sau đây thì không được nêu tội người khác ở giữa chúng Tăng. Đó là: Thiên vị; giận dữ; sợ hãi; si mê và vụ lợi. Nếu có năm tính xấu đó mà nêu tội người khác thì sau khi thân hoại mệnh chung, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục.

Lại nữa, người nào thành tựu năm pháp sau đây thì được nêu tội người khác. Đó là: Không Thiên vị; không giận dữ; không sợ hãi; không ngu si và không vụ lợi. Người nào thành tựu năm pháp đó mà nêu tội người khác thì sau khi thân hoại mệnh chung được sinh vào đường Thiện, được các bậc phạm hạnh ca ngợi.

Đó gọi là cử (tội).

VIỆC TRỊ PHẠT.

Thế nào gọi là Trị phạt?

—Người phạm tội Ba-la-di thì Tăng nên đuổi về làm người thế tục, hoặc làm Sa-di. Người phạm tội Tăng già bà thi sa, nếu che giấu thì Tăng cho pháp Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa rồi xuất tội, nếu không che giấu thì hành Ma-na-đỏa rồi xuất tội. Người phạm tội Ni-tát-kì-ba-dạ-đề thì phải đem vật đã cất ra xả bỏ giữa Tăng, rồi đến trước Tỉ-kheo trưởng lão trật vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, bạch như sau:

—Thưa trưởng lão! Tôi đã cất y Thừa quá mười ngày, nay đem xả bỏ giữa chúng Tăng và sám hối tội Ba-dạ-đề.

Vị Tỉ-kheo thụ sám nên hỏi:

—Thầy có thấy tội này không?

—Dạ thấy.

—Đừng tái phạm nhé.

—Tôi xin cúi đầu vâng giữ.

Thế rồi Tăng làm yết-ma, giao y đó cho một người giữ, sau đó nên trả lại (chủ cũ). Còn phạm tội Ba-dạ-đề cho đến Việt-tì-ni thì cũng sám hối như thế.

ĐUỔI ĐI.

Gồm bảy trường hợp:

1. Hủy hoại tịnh hạnh của Ni;

2. Sống trong chúng để trộm pháp;

3. Lừa đảo;

4. Phạm ngũ nghịch;

5. Bất năng nam;

6. Phạm bốn tội Ba-la-di;

7. Sa-di có ác kiến.

Đó gọi là bảy việc nên đuổi đi.

DỊ TRỤ (Phá Pháp luân Tăng).

Khi Phật an trú tại thành Vương Xá, đã xảy ra vụ Đề Bà Đạt Đa phá Tăng, như ở trước đã nói rõ. Thế rồi, Đề Bà Đạt Đa đi đến Thành Già-da. Sau đó, Phật cũng đi tới thành Gia Da. Hôm ấy nhằm ngày Bố-tát, Phật bảo A-nan:

—Ông đến gọi Đề Bà Đạt Đa về, hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát.

A-nan bèn đến đó, nói:

—Thưa trưởng lão! Hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát, đức Thế Tôn cho gọi Trưởng lão.

Đề Bà Đạt Đa đáp:

—Tôi không đến. Từ nay về sau tôi không sinh hoạt chung trong Phật pháp Tăng, không Bố-tát, Tự tứ, yết-ma chung. Từ nay về sau, đối với giới luật điều nào muốn học hay không muốn học đều do ý tôi quyết định.

A-nan nghe nói thế, liền suy nghĩ: “Đây là việc kỳ quái, thốt ra lời nói ác này lẽ nào không thương tổn đến Tăng?”

Đoạn, A-nan trở về, đem việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật nói với A-nan:

—Ông hãy trở lại chỗ Đề Bà Đạt Đa một lần nữa.

Cho đến A-nan suy nghĩ: “Thật là kỳ quái, thốt ra lời nói ác này chẳng lẽ không tổn thương đến Tăng sao?”.

Sau khi A-nan trở về, nhóm sáu Tỉ-kheo bàn nhau: “Chắc chắn Sa-môn Cù-đàm sẽ sai sứ đến lần thứ ba. Tất cả chúng ta phải giữ chánh niệm Bố-tát trước. Chúng ta hãy để lại danh dự cho hậu thế biết rằng khi Phật còn tại thế mà Đề Bà Đạt Đa và nhóm sáu Tỉ-kheo đã cùng nhau phá Tăng”, bèn thực hiện Bố-tát. A-nan liền đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo:

—Ông hãy trở lại lần thứ ba, bảo Đề Bà Đạt Đa đến, vì hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát.

A-nan liền đến đó, nói:

—Đức Thế Tôn gọi các vị. Hôm nay Tăng làm yết-ma Bố-tát.

Họ đáp:

—Chúng tôi không đi. Từ hôm nay trở đi, chúng tôi không sinh hoạt chung trong Phật pháp Tăng, không Bố-tát tự tứ và yết-ma chung. Từ nay về sau, đối với giới luật, điều nào muốn học hay không muốn học đều do ý tôi quyết định. Nhưng chúng tôi đã Bố-tát xong rồi.

A-nan nghe thế, suy nghĩ: “Thực là kỳ lạ, thế là họ đã phá hoại Tăng thật rồi”, bèn trở về, đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Đức Thế Tôn nghe xong, bèn đọc kệ:

“Thanh tịnh như trăng tròn,
Thanh tịnh được Bố-tát.
Thân khẩu nghiệp thanh tịnh,
Thế mới nên Bố-tát”.

Đoạn, Phật nói với A-nan:

—Những người phi pháp đã Bố-tát xong, vậy những người như pháp nên Bố-tát.

Khi ấy Đề Bà Đạt Đa phá Tăng, còn nhóm sáu Tỉ-kheo là bè đảng phá Tăng.

Đó gọi là Dị trụ.

Hết quyển thứ hai mươi sáu.

NÓI RÕ PHẨM TẠP TỤNG THỨ 5.

PHÁP YẾT-MA.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba tranh cãi với nhau, sống không hòa hợp. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo:

—Từ hôm nay Tăng nên làm yết-ma. Ưu-ba-li sẽ xử đoán sự việc của các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba. Người làm yết-ma nên nói:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Trưởng lão Ưu-ba-li thành tựu năm pháp, nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng đề cử trưởng lão Ưu-ba-li xử đoán việc của các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba”. Đây là lời tác bạch.

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Trưởng lão Ưu-ba-li thành tựu năm pháp, Tăng nay đề cử Ưu-ba-li xử đoán việc của các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cử Ưu-ba-li xử đoán việc của các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế)

Tăng đã đề cử Ưu-ba-li xử đoán việc của các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.

Pháp yết-ma gồm có hai mươi trường hợp. Tám trường hợp bạch nhất yết-ma như trên đã nói. Còn tám trường hợp bạch tam yết-ma (một lần bạch ba lần yết-ma) thì như sau:

1. Cử người xử đoán sự việc;

2. Cử người dạy bảo Tỉ-kheo-ni;

3. Cử người làm yết-ma một tháng;

4. Yết-ma chiên;

5. Yết-ma cuồng si;

6. Yết-ma phát lồ;

7. Yết-ma phú bát;

8. Yết-ma xác định học gia.

Đó gọi là tám trường hợp một lần bạch ba lần yết-ma.

Trong đây, cử người xử đoán, dạy bảo Tỉ-kheo-ni thì chúng Tăng phải thỉnh cầu, còn yết-ma rời y mà ngủ, yết-ma một tháng và yết-ma chiên thì đương sự phải theo Tăng xin. Ngoài ra, yết-ma cuồng si, yết-ma nói tội người khác, các yết-ma này nên làm trong cương giới với sự hiện diện của Tăng, không được làm ngoài cương giới. Cũng thế, yết-ma học gia, yết-ma phú bát cũng nên làm trong cương giới với sự hiện diện của Tăng, không được làm ở ngoài cương giới.

Người xử đoán, sau khi được đề cử không được chần chừ. Nếu được đề cử buổi sáng thì buổi xế nên khởi hành. Nếu được đề cử vào lúc xế thì sáng sớm hôm sau thức dậy nên lên đường. Lúc đi, không được theo đàn việt đi những con đường vòng vo mà phải đi theo con đường thẳng. Nếu con đường thẳng có chướng nạn thì đi con đường vòng vo không có tội. Khi đến nơi đó rồi thì không được chần chừ đợi Tỉ-kheo khách ăn. Nếu đến buổi xế thì sáng sớm hôm sau nên xử đoán. Nếu đến vào buổi sáng thì lúc xế nên xử đoán. Không được nhuộm y, hơ bát, ngồi Thiền, tụng kinh. Nếu sự việc khó giải quyết, trong lúc đang rỗi rảnh thì làm các việc trên không có tội. Khi xử đoán sự việc xong rồi trở về cũng như vậy. Đó gọi là pháp yết-ma.

VẤN ĐỀ RUỘNG VƯỜN.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các Tỉ-kheo đem ruộng đất của chúng Tăng cho người thuê mướn, hoặc đem bán, hoặc dùng làm của riêng. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật nói với các Tỉ-kheo:

—Từ nay về sau ruộng đất của chúng Tăng không được cho người thuê mướn, không được đem bán, không được dùng làm của riêng. Giả sử Tăng tập họp tất cả đồng ý cũng không được cho người thuê mướn, không được đem bán, không được sử dụng riêng. Nếu tập họp Tăng lại cho người thuê mướn, đem bán hay sử dụng riêng thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu ruộng đất của Tăng tốt, bị kẻ ác xâm chiếm thì nên bảo đàn việt coi sóc giúp. Nếu đàn việt nói: “Đây là ruộng đất tốt vì sao bảo tôi chăm sóc?”, thì nên đáp: “Ruộng đất này tuy tốt nhưng kẻ ác muốn xâm chiếm, nên nhờ đàn việt trông coi giúp”.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, đất của Tăng và đất của vua lẫn lộn vào nhau, vua Ba Tư Nặc nói với tôn giả A-nan:

—Đất của vua lẫn lộn vào trong đất của Tăng, vậy nên đem dây đến đo để chia ra.

A-nan đáp:

—Đợi tôi bạch với Phật đã.

Thế rồi, A-nan đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật nói với A-nan:

—Ông hãy đến nói với nhà vua rằng:—Đại vương là chủ đất, Sa-môn Thích tử dựa vào đại vương mà sống, do thế, không nên chia đất đại vương.

A-nan Thọ giáo, đi đến chỗ vua, nói:

—Phật dạy rằng: “Đại vương là chủ đất, Sa-môn Thích tử nương vào đại vương mà sống, do thế không nên chia đất với đại vương”. Vua nói: “Nếu như thế thì xin cúng tất cả cho chúng Tăng. Hôm nay đặt tên là vườn của vua để cho người sau được biết”.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Tăng có đám đất trống, rồi một trưởng giả đến hỏi:

—Đám đất trống này của ai vậy?

Tăng đáp:

—Đất của Tăng đó.

Trưởng giả nói:

—Nếu đất của Tăng thì nên giao cho tôi, tôi muốn làm phòng cho chúng Tăng. Tăng bèn giao đất, nhưng trải qua lâu ngày mà ông không làm phòng.

Rồi có một cư sĩ đến hỏi:

—Đám đất trống này của ai vậy?

Tăng đáp:

—Đất của Tăng đó.

—Nên giao cho tôi, tôi muốn làm phòng cho chúng Tăng.

—Trước đây đã có một trưởng giả đòi làm phòng nhưng chưa làm.

—Thưa tôn giả, tôn giả cứ giao cho tôi, lo gì không làm!

Tỉ-kheo liền giao đất. Cư sĩ vì muốn tạo công đức nên dốc hết gia tài châu báu làm những phòng ốc tốt đẹp, rồi sắm sửa mọi thứ ẩm thực cúng dường chúng Tăng. Đoạn, đem các phòng ốc đó cúng dường cho chúng Tăng, đồng thời mời vị trưởng giả trước kia đến để cùng chung vui. Trưởng giả thấy thế hỏi:

—Thưa tôn giả, ai làm phòng vậy?

—Vị cư sĩ này đây.

—Đám đất này trước đã giao cho tôi, vì sao còn giao cho cư sĩ?

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:

—Vì sao không ra điều kiện trước mà đem đất giao cho người ta? Từ nay về sau không nên không ra điều kiện trước mà đem đất giao cho người ta. Nếu Tăng có đất trống rồi có người đến đòi làm phòng thì nên ra điều kiện phải làm trong thời gian chừng ấy.

Nếu đương sự nói: “Tôi sẽ làm trong khoảng thời gian chừng đó”, thì nên nói: “Nếu đến thời gian đó mà chưa làm thì tôi sẽ giao cho người khác”.

Nếu hai người đến đòi làm mà một người nói: “Tôi sẽ làm cho chúng Tăng một tầng lầu”, còn người kia nói: “Tôi sẽ làm hai tầng lầu”, thì Tăng nên giao cho người xin làm hai tầng; cũng thế, ba, bốn tầng cho đến bảy tầng.

Nếu hai người cùng nói xin làm bảy tầng, thì lúc ấy nên xem tướng coi người nào có thể làm được thì giao cho họ. Nếu hai người đều có thể làm được thì nên giao cho người có nhiều quyến thuộc. Nếu không bắt làm cam kết trước mà giao đất cho họ, thì phạm tội Việt-tì-ni.

Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo làm Thảo am trên đất của chúng Tăng, rồi Thượng Tọa đến, theo thứ tự giao phòng thì Tỉ-kheo không giao. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo:

—Nếu ai làm phòng trên đất của chúng Tăng mà Thượng Tọa đến theo thứ tự không giao phòng, thì nên đem các vật liệu cây cỏ ấy đến chỗ khác. Nếu ai làm phòng trên đất của chúng Tăng mà khi Thượng Tọa đến theo thứ tự không giao phòng thì phạm tội Việt-tì-ni.

NHÀ ĐẤT.

Nếu chúng Tăng có đất cất nhà có giá trị mà có kẻ ác ở lân cận muốn xâm chiếm, thì nên bảo đàn việt trông coi giúp đất đó. Nếu đàn việt nói: “Đất làm nhà này quí giá, vì sao lại muốn cho tôi trông coi?”, thì nên nói: “Đất làm nhà này tuy tốt nhưng kẻ ác ở gần thường muốn chiếm đoạt”.

Nếu đàn việt nói: “Muốn hoán đổi sao?”, thì hãy đáp: “Tùy ý đàn việt quyết định”. Nếu đàn việt hoán đổi thì không có tội. Đó gọi là nguyên tắc về nhà đất.

VẤN ĐỀ TĂNG GIÀ LAM.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo chiếm đoạt đất già-lam để làm phòng, Thầy Cựu Tri Sự nói:

—Trưởng lão đừng có chiếm đoạt chỗ ở của Tăng để làm phòng.

Tỉ-kheo ấy nói:

—Này trưởng lão, tôi làm phòng cho chúng Tăng, thầy đừng có gây trở ngại.

Thế rồi hai người cùng tranh luận, không giải quyết được, bèn dẫn nhau đến chỗ Phật, trình bày lại đầy đủ sự việc trên với Thế Tôn. Phật dạy:

—Từ nay về sau không được cưỡng chiếm chỗ ở cũ của Tăng để làm phòng cho chúng Tăng. Vị cựu Tỉ-kheo cũng không được gây trở ngại việc đó. Nếu hai Tỉ-kheo tri sự đồng ý nhau thì nên làm một phòng cùng mái lợp mà ngăn chia khác vách; hoặc mái lợp cách biệt mà cùng một tường vách; hoặc cùng một mái lợp, cùng một tường vách; hoặc mái lợp riêng biệt, tường vách riêng biệt.

Nếu hai người không vui vẻ với nhau, thì nên làm phòng có mái lợp riêng, tường vách riêng. Nếu cưỡng chiếm phòng cũ để làm nhà mới cho Tăng thì phạm tội Việt-tì-ni. Còn kẻ nào gây trở ngại đối với người làm phòng cho Tăng cũng phạm tội Việt-tì-ni.

Lại nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có Tỉ-kheo xây Tháp cho Thanh Văn tại chỗ có nhiều người đi, khiến các cư sĩ đi đến lễ bái Thế Tôn, thấy thế, chê trách:

—Chúng ta đến đây để đảnh lễ đức Thế Tôn, mà chưa thấy Thế Tôn đâu đã thấy nấm mồ người chết.

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo:

—Vì sao các ông không làm yết-ma trước mà xây tháp Thanh Văn tại chỗ đất có nhiều người đi? Từ nay về sau Ta không cho phép không làm yết-ma trước mà xây tháp cho Thanh Văn tại chỗ đất có nhiều người đi. (Muốn xây tháp) trước hết nên làm yết-ma cầu thính. Người làm yết-ma nên nói như sau:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp vì vô thường đã nhập Niết-bàn. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho xây tháp Thanh Văn cho Tỉ-kheo mỗ giáp – Vì sự vô thường đã nhập Niết-bàn – tại chỗ này.

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tăng nay cho xây tháp Thanh Văn cho Tỉ-kheo mỗ giáp tại chỗ này. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.

Nếu không hòa hợp thì nên nói:

—Thưa trưởng lão, đức Thế Tôn nói bốn hạng người nên xây tháp, đắp tướng luân (hình bánh xe), treo tràng phan bảo cái, đó là đức Như Lai, các Thanh Văn, Phật Bích Chi và Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu Tỉ-kheo viên tịch là Tu-đà-hoàn thì nên gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán thì nên gọi là A-la-hán. Hoặc gọi là Tỉ-kheo giữ luật, hoặc gọi là Pháp sư, hoặc gọi là Tỉ-kheo doanh sự có đức vọng.

Thế rồi, nên tiếp:

—Thưa trưởng lão, vị ấy giữ giới, hiền thiện, cúng dường cho Tăng rất nhiều, làm việc cực nhọc, nên xây tháp cho Thầy.

Trình bày như thế rồi, mới xây Tháp cho vị ấy. Khi xây tháp Thanh Văn không được để cho nhìn thấy tháp trước rồi mới thấy Phật sau, mà phải làm sao để thấy Thế Tôn trước rồi mới thấy tháp sau. Không được làm ở chỗ có nhiều người đi mà phải làm ở chỗ vắng vẻ. Cũng không được làm tại chỗ các Tỉ-kheo đi kinh hành. Nếu ai xây tháp Thanh Văn tại chỗ có nhiều người đi thì phạm tội Việt-tì-ni.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả Ca Lôï ở tại thôn ấp lớn Ca Thi Kỳ Lê, lúc ấy có Tỉ-kheo Thượng Tọa đến, theo thứ tự giao phòng mà thầy không chịu giao, còn nổi giận cầm búa đập phá căn phòng. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến thưa hỏi Thế Tôn:—Bạch Thế Tôn, Vị Tỉ-kheo này phạm vào tội gì?

Phật dạy:

—Phá hoại sáu loại sau đây thì phạm tội Thâu-lan-giá, đó là: phá bát, phá y, phá tháp, phá phòng, phá Tăng, phá cương giới.

Phá bát: Bát có ba loại thượng, trung và hạ. Nếu vì giận dữ mà phá một loại nào đó thì phạm tội Thâu-lan. Nếu bát bị mẻ muốn hàn lại mà lỡ tay rớt bể thì không có tội. Nếu vì tức giận mà đập bể tô, chén thì phạm tội Việt-tì-ni.

Phá y: Nếu vì tức giận mà xé rách một trong ba y thì phạm tội Thâu-lan. Nhưng nếu muốn cắt miếng ngoài biên may vào giữa, cắt miếng ở giữa may ngoài biên, hoặc vá thêm hai lớp thì không có tội. Nếu vì tức giận mà đem xé tọa cụ hoặc các loại vải vóc khác, thì phạm tội Việt-tì-ni.

Phá Tháp: Nếu vì tức giận mà phá tháp của đức Thế Tôn thì phạm tội Thâu-lan, bị nghiệp hành tội báo rất nhiều. Nếu muốn sửa chữa để làm lại tốt hơn thì không có tội. Nếu vì tức giận mà phá Tháp của Ni-Kiền và các ngoại đạo khác thì phạm tội Việt-tì-ni.

Phá phòng: Nếu vì tức giận mà phá phòng của Tăng thì phạm tội Thâu-lan. Nếu muốn làm lại tốt hơn thì không có tội. Nếu vì giận dữ mà phá phòng của tu sĩ ngoại đạo thì phạm tội Việt-tì-ni.

Phá Tăng: Nếu vì tức giận mà phá sự hòa hợp của Tăng thì phạm tội Thâu-lan, bị nghiệp hành mang quả báo phải rơi vào trong địa ngục một kiếp.

Phá cương giới: Nếu vì giận dữ mà làm (phòng) ngoài phạm vi cương giới thì không thể gọi là làm (phòng), phạm tội Thâu-lan, nhưng được bỏ cương giới cũ rồi làm yết-ma lại cương giới khác.

Đó gọi là sáu loại phá hoại phạm tội Thâu-lan.

Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ tôn giả La Hầu La đang du hành đến nước Bạt Kỳ, dần dần đi tới thôn Ba-La Nại. Thế rồi, có một cư sĩ ở thôn này xây phòng cho La Hầu La. La Hầu La nhận xong lại tiếp tục du hành, cư sĩ bèn đem căn phòng này cúng cho các Tỉ-kheo khác. Đến khi La Hầu La trở về… như trong tuyến kinh đã nói rõ, cho đến La Hầu La bạch với Phật:

—Bạch Thế Tôn, căn phòng này nên thuộc về ai?

Phật nói với La Hầu La:

—Nếu cư sĩ, con cư sĩ có lòng tin hoan hỉ làm phòng cúng dường cho chúng Tăng, nhưng khi cúng cho Tăng rồi, lại đem cúng cho nhiều người khác thì đó là cách cúng phi pháp và Thọ dụng phi pháp. Nếu cúng cho nhiều người rồi đem cúng cho một người, thì đó là cách cúng phi pháp và thọ dụng phi pháp. Hoặc đem cúng cho một người rồi lại đem cúng cho nhiều người; hoặc đem cúng cho nhiều người rồi lại đem cúng cho chúng Tăng, thì đó là cách cúng phi pháp và thọ dụng phi pháp. Ngoại trừ, khi đem cúng cho Tăng rồi không đem cúng cho nhiều người, khi đem cúng cho nhiều người rồi không đem cúng cho một người thì đó là cách cúng đúng pháp và thọ dụng đúng pháp.

Này La Hầu La, cách cúng trước là cúng đúng, cách cúng sau là không đúng. Nếu Tăng ở tại đất của vua, rồi người làm phòng trước đem cúng dường trước, thì công đức ngày đêm càng tăng thêm.

Này La Hầu La, ông đương nhiên được phòng, còn người sau thì đương nhiên không được.

Đó gọi là phép tắc của Tăng-già-lam.

PHÉP TẮC VỀ DOANH SỰ.

Khi Phật an trú tại thành Vương Xá, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả Đạt Nị Ca con của người thợ gốm làm phòng, như trong giới Ba-la-di thứ hai đã nói, cho đến thốt lời oán trách như sau:—Ta làm phòng gian khổ, không nài nóng lạnh, làm mới vừa xong thì Thượng Tọa đoạt mất, giống như mèo rình chuột.

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo:

—Vị Tỉ-kheo doanh sự ấy làm phòng rất gian khổ, Tăng nên làm yết-ma cho Thầy cư trú năm năm. Người làm yết-ma nên nói:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp muốn làm phòng cho Tăng. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo doanh sự mỗ giáp làm phòng cho Tăng, theo Tăng xin cư trú năm năm.

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo doanh sự mỗ giáp muốn theo Tăng xin cư trú năm năm. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.

Thế rồi, Vị Tỉ-kheo này nên trịch vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay, xin như sau:

—Thưa đại đức Tăng! Tôi là Tỉ-kheo mỗ giáp làm phòng cho Tăng, nay theo Tăng xin cư trú năm năm do công lao làm phòng. Kính mong Tăng xót thương cho tôi cư trú năm năm do công lao làm phòng. (xin như vậy ba lần).

Người yết-ma nói:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp làm phòng cho Tăng, theo Tăng xin cư trú năm năm do công lao làm phòng. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp cư trú năm năm do công lao làm phòng. Đây là lời tác bạch.

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp làm phòng cho Tăng, theo Tăng xin cư trú năm năm do công lao làm phòng. Tăng nay cho Tỉ-kheo mỗ giáp cư trú năm năm do công lao làm phòng. Các đại đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp cư trú năm năm do công lao làm phòng thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy).

Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo mỗ giáp cư trú năm năm do công lao làm phòng xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.

Sau khi Tăng đã làm yết-ma cho cư trú năm năm, Tỉ-kheo doanh sự trở về chỗ mình đã làm phòng, theo thứ tự được một phòng. Nếu có Thượng Tọa đến thì nên giao phòng theo thứ tự, còn căn phòng đã yết-ma cho mình thì không nên giao. Nếu muốn đi du hành thì phải giao hai căn phòng ấy lại cho Tăng, tùy thứ tự cư trú. Đồng thời gởi gấm: “Khi nào tôi trở về thì phải giao phòng lại cho tôi”. Sau khi trở về, Tăng phải giao phòng lại theo lời giao ước trước. Nếu phòng Tăng cũ bị hư hỏng rồi làm cửa lại, thì tùy theo công lao nhiều ít mà làm yết-ma cho cư trú hai năm hay ba năm. Nếu phòng bỏ trống không ai ở thì nên cho người ở để trông coi một thời gian.

Nếu giường ghế mền gối bị dơ bẩn, rách nát mà đem giặt nhuộm sửa chữa lại, thì nên cho ở một thời gian.

Nếu trong thời gian ấy có Tỉ-kheo nào xoi bói, thì phạm tội Việt-tì-ni.

Đó gọi là phép tắc về doanh sự.

PHÉP TẮC VỀ GIƯỜNG NỆM.

Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, trong lúc Tỉ-kheo an cư, Thượng Tọa đến, rồi theo thứ tự lấy phòng. Đoạn, Thầy chở đồ đạc ra khỏi phòng. Phật biết nhưng vẫn hỏi các Tỉ-kheo:

—Đó là Tỉ-kheo khách phải không?

—Thưa không phải, bạch Thế Tôn.

—Đó là Tỉ-kheo ra đi luôn phải không?

—Thưa không phải, bạch Thế Tôn.

—Thế thì Tỉ-kheo nào mà chở đồ đạc đi?

—Bạch Thế Tôn, đó là người theo thứ tự nhận phòng, thế rồi chở đồ đạc đi.

—Vì sao lúc nào các ông cũng giao phòng theo thứ tự từ Thượng Tọa trở xuống? Từ nay về sau, Ta không cho phép bất cứ lúc nào cũng giao phòng từ Thượng Tọa trở xuống. Tăng nên cử một người thành tựu năm pháp trông coi việc giao phòng xá, giường nệm.

Thế nào là năm pháp?

—Đó là: Không thiên vị; không giận dữ; không sợ hải; không ngu si, biết ai được rồi, ai chưa được. Đó gọi là năm pháp.

Người làm yết-ma nên nói:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp trông coi việc giao phòng ốc giường nệm. Đây là lời tác bạch.

Xin đại đức Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp, Tăng nay cử Tỉ-kheo mỗ giáp trông coi việc giao phòng ốc, giường nệm. Các đại đức nào bằng lòng Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp trông coi việc giao phòng ốc giường nệm, thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.

Tăng đã bằng lòng cử Tỉ-kheo mỗ giáp trông coi việc giao phòng ốc, giường nệm xong, vì Tăng đã im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.

Sau khi làm yết-ma xong, từ ngày 16 tháng 3 trở đi, nên bảo đàn việt giặt rửa giường nệm phòng ốc, sửa chữa phòng ngồi Thiền, giảng đường, phòng sưởi, cầu tiêu, sửa chữa nhà ngõ, nhà che giếng thuộc Tăng già-lam và ghi chép tất cả những bữa ăn thuộc ngày trai cũng như y an cư. Nếu trú xứ của Tăng xa thành ấp xóm làng thì đến ngày 13 tháng tư nên giao phòng. Nếu người nào không được dung nạp thì nên đi đến nơi khác. Nếu trú xứ gần xóm làng, thì nên giao phòng vào ngày 15, đồng thời đọc biên bản đã ghi chép: Tăng già-lam mỗ giáp có chừng ấy phòng ốc, chừng ấy giường nệm, chừng ấy bữa ăn thuộc ngày trai, chừng ấy y. Thượng Tọa nên bảo:

—Hãy giao phòng cho những ai cùng an cư một chỗ.

Nói như thế rồi, mới giao phòng. Nhưng không được giao phòng cho Sa-di. Ngoại trừ, Hòa Thượng A-xà-lê bảo:—“Cứ giao phòng để mặc tôi xử lý” thì mới giao.

Nếu phòng nhiều thì nên giao mỗi người hai phòng. Nếu vị ấy không chịu nhận hai phòng, mà nói: “Tôi chỉ cần một phòng là đủ”, thì khi ấy, nên bảo: “Đây không phải là giao để sử dụng mà là giao để trông coi”.

Nếu Tỉ-kheo nhiều mà phòng ít, thì nên giao cho hai người, ba người cùng ở chung một phòng. Nếu vẫn không đủ, thì nên giao năm người, mười người ở chung một phòng.

Nếu có một ngôi nhà lớn thì tất cả Tỉ-kheo nên vào ở trong đó. Thượng Tọa nên giao cho giường nằm, còn những người khác thì giao cho giường ngồi.

Nếu không đủ, thì Thượng Tọa nên giao cho giường ngồi, những người khác thì ngồi trên nệm cỏ.

Nếu vẫn không đủ, thì Thượng Tọa nên ngồi nệm cỏ, còn những người khác thì ngồi không.

Nếu vẫn không đủ nữa, thì Thượng Tọa nên ngồi kiết già, còn những người khác thì đứng.

Nếu vẫn không đủ, thì Thượng Tọa nên đứng, còn những người khác thì ra ngoài gốc cây hay chỗ đất trống.

Nếu giao phòng vào mùa Đông, hoặc là để trông coi, hoặc là để ở, thì khi Thượng Tọa đến nên theo thứ tự mà ở.

Nếu giao phòng vào mùa Xuân hoặc là để trông coi, hoặc là để ở, thì khi Thượng Tọa đến nên theo thứ tự mà ở.

Nếu giao phòng vào lúc an cư hoặc để trông coi, hoặc là để ở, thì khi Thượng Tọa đến không nên theo thứ tự mà ở.

Nếu Tỉ-kheo không biết phép tắc, trong lúc an cư đòi phòng theo thứ tự mà không được, bèn khiển trách, thì nên nói: “Hãy đợi đây, để tôi đi hỏi người coi phòng đã”, rồi nên đến nói với người coi phòng: “Thưa trưởng lão, có Tỉ-kheo khách là bậc Thượng Tọa đến, bảo tôi dời đi”.

Bấy giờ, người coi phòng phải khiển trách Tỉ-kheo khách:

—Này trưởng lão! Thầy không am tường giới luật. Vì sao trong lúc an cư mà bảo người khác dời đi? Thầy không hiểu sao? Không phải lúc nào cũng đuổi người khác được.

Nhưng nếu mùa Đông, mùa Xuân có Thượng Tọa đến, theo thứ tự nên nhường phòng mà không nhường, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu Tỉ-kheo không am tường giới luật, trong lúc an cư mà đuổi người khác đi, thì phạm tội Việt-tì-ni.

Đó gọi là phép tắc về giường nệm.

PHÉP CUNG KÍNH.

Khi Phật du hành đến nước Câu Tát La, vào lúc đầu đêm, Thế Tôn thuyết pháp cho các Thanh Văn, đến nửa đêm Ngài trở về phòng. Bấy giờ, các Tỉ-kheo có người cung cấp nên đã lấy phòng trước, đến khi nghe pháp xong, ai nấy trở về phòng an nghỉ. Lúc ấy, tôn giả Xá-lợi-phất và Mục Liên, không có người cung cấp, đầu đêm nghe pháp đến nửa đêm, bèn tới phòng gõ cửa, thì những người ở trong phòng hỏi:

—Ai đó?

—Xá-Lợi-Phất đây.

—Phòng đã đầy rồi, thưa bậc đại trí.

Thế rồi, hai người đến gõ cửa phòng khác. Người trong phòng hỏi:

—Ai đó?

—Tôi là Đại-Mục-Liên đây.

—Phòng đã đầy rồi, thưa bậc đại thần túc.

Thế là cả hai đều không có phòng, nên một người đến ngồi dưới thềm nhà, còn một người ra ngồi dưới gốc cây. Đêm ấy trời mưa, người ngồi dưới thềm nhà đọc kệ:

“Ngồi kiết già dưới thềm,
Mưa ướt hai đầu gối.
Đã sống trong an lạc,
Sẽ đoạn thân đời sau”.

Đoạn, người ngồi dưới gốc cây cũng đọc kệ:

“Dưới cây sống tri túc,
Khất thực, ngồi nệm cỏ.
Cả hai không tham trước,
Sẽ đoạn thân đời sau”.

Lúc ấy có Ưu-bà-tắc buổi sáng thức dậy, đi đến thăm viếng Thế Tôn, thấy thế bèn chê trách:—Vì sao Sa-môn Thích tử lại không biết phép cung kính? Bậc đại đức như thế mà không cho phòng nghỉ.

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền dạy:

—Việc như thế thật đáng bị người đời chê cười.

Rồi Phật nói với các Tỉ-kheo:

—Đợi Ta du hành nước Câu Tát La xong trở về lại thành Xá-vệ, rồi nhắc lại cho Ta, Ta sẽ chế định phép cung kính cho các Tỉ-kheo.

Khi Phật trở về, các Tỉ-kheo bèn đem sự việc trước bạch lại với Thế Tôn. Phật liền hỏi các Tỉ-kheo:

—Ai là bậc Thượng Tọa lớn nhất đáng được lấy nước trước, được nhận cơm trước?

Ai đáng được nhận sự lễ bái?

Ai đáng được đứng dậy tiếp nước?

Ai đáng được chắp tay, cúi đầu, cung kính? Khi nghe thế, các Tỉ-kheo nói:

—Con của Thế Tôn đáng được nhận.

Tỉ-kheo khác nói:

—Những người thân quyến của Thế Tôn đáng được nhận.

Lại có người nói:

—Thị giả của Thế Tôn đáng được nhận.

Lại có người nói:

—Bậc A-la-hán đáng được nhận.

Thế rồi, người Sát-lợi xuất gia nói:

—Người Sát-lợi đáng được nhận.

Người Bà-la-môn xuất gia lại nói:

—Người Bà-la-môn đáng được nhận.

Người Tì-xá xuất gia thì nói:

—Người Tì-xá đáng được nhận.

Còn người Thủ-đà-la xuất gia thì nói:

—Người Thủ-đà-la đáng được nhận.

Phật liền nói với các Tỉ-kheo:

—Các ông ai nấy đều vì tính kiêu mạn cho nên nói rằng: Đáng cho con của Thế Tôn, cho đến người Thủ-đà-la. Nhưng ở đây không phải là phép tắc của người đời. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sẽ nói cho các ông biết về phép tắc của người đời… như trong Tuyến Kinh đã nói rõ, cho đến Phật nói với các Tỉ-kheo:

—Từ nay về sau Ta chế giới: Người xuất gia trước phải được hưởng sự lễ bái, đứng dậy đón rước, chắp tay cúi đầu cung kính. Người xuất gia trước phải được ngồi trên, phải được nhận lời mời trước, ngồi trước, lấy nước trước, Thọ trai trước.

Các Tỉ-kheo liền tán thán:

—Đức Thế Tôn đã khéo trình bày về cách thức tôn kính trưởng lão.

Phật nói:

—Không những ngày nay Ta khéo trình bày về cách thức tán thán trưởng lão mà trong thời quá khứ Ta cũng đã từng nói như thế.

Các Tỉ-kheo liền bạch với Phật:

—Chúng con muốn được nghe.

Phật nói với các Tỉ-kheo:

—… Trong thời quá khứ xa xưa có ba con vật là Chim trĩ, Khỉ và Voi cùng sống với nhau dưới cây Ni-câu-loại. Con voi nói:

—Ba chúng ta cùng sống với nhau tại một chỗ, trong đây ai lớn nhất? Ai đáng được tôn kính?

Rồi voi tiếp:

—Tôi đã cỡi trên đầu cây này đi qua.

Khỉ nói:

—Ngày trước tôi đã từng đái trên đầu cây này.

Chim trĩ nói:

—Ngày xưa tôi ăn quả loại cây này trên núi Tuyết rồi xuống ỉa nơi đây mà mọc ra cây này.

Bấy giờ Chim trĩ là lớn nhất, hai con vật kia tôn kính nó, nên sau khi chết đều được sinh về cõi lành. Con voi khi ấy chính là Ta đây. Các ông cũng nên tôn kính các Thượng Tọa như vậy, thì giới luật mới được thăng hoa.

Đó gọi là phép tắc cung kính.

Nhận lời mời trước:

Nếu có người đến mời thì nên mời Thượng Tọa trước. Nếu đàn việt chưa từng làm phước, mời Tỉ-kheo trẻ, thì nên bảo họ đến chỗ Thượng tọa. Đó gọi là nhận lời mời trước.

Phép ngồi của Thượng Tọa:

Khi sắp chỗ ngồi, không được sắp chỗ ngồi của người nhỏ tuổi ở trên cao, chỗ ngồi của Thượng Tọa ở dưới thấp, mà phải sắp chỗ ngồi của Thượng Tọa ở trên cao, chỗ ngồi của người nhỏ tuổi ở dưới thấp; đồng thời phải trải tọa cụ ngay ngắn tề chỉnh; những cái tốt thì dành cho Thượng tọa, những cái không tốt thì để cho Hạ tọa. Nếu nhà đàn việt mời Tỉ-kheo quen biết rồi dành cho giường nệm tốt thì cứ để mặc ý thí chủ, không được tranh giành. Nếu vào dịp năm năm đại hội số người đông đúc tạp nhạp, thì tối thiểu phải sắp chỗ ngồi tươm tất cho tám người ngồi ở trên cao, còn các chỗ ngồi dưới thì tùy nghi. Đó gọi là phép ngồi của Thượng tọa.

Nhận thức ăn trước:

Khi dọn thức ăn phải dọn cho Thượng Tọa trước. Nếu đàn việt chưa từng làm phước dọn cho người nhỏ tuổi trước, thì nên bảo họ bưng tới chỗ Thượng tọa. Khi dọn cơm, nên dọn cơm ngon cho Thượng tọa; cũng thế, khi dọn tất cả các Thức ăn uống khác cũng phải bảo dọn món ngon cho Thượng tọa. Nếu nhà đàn việt mời Thọ trai, mà họ dọn sai biệt, thì tùy theo ý họ, không nên tranh luận làm chi. Nếu vào dịp năm năm đại hội một lần, số người đông đúc tạp nhạp, thì tối thiểu phải dọn món ngon cho tám Thượng Tọa hàng đầu, còn các hạ tọa thì tùy nghi mà dọn. Đó gọi là nhận thức ăn trước.

Lễ bái cung kính đứng dậy đón rước, cúi đầu chắp tay:

Bấy giờ, khi đảnh lễ ai thì đảnh lễ khoảng đầu gối, bắp chân. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:

—Từ nay về sau nên đảnh lễ dưới bàn chân.

Thế rồi, các Tỉ-kheo bảo bậc tôn túc đưa bàn chân ra để đảnh lễ, làm nhiễu loạn người tu hành. Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy:

—Từ nay về sau phải nói tiếng “xin chào”.

Khi ấy có Tỉ-kheo chơi đùa, nói:

—Xin chào tôn giả, xin chào tôn giả.

Lại làm nhiễu loạn người ta. các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:

—Từ nay về sau chào hỏi có ba cách:

Dùng thân, miệng và tâm. Dùng thân nghĩa là khi đương sự đang ngồi hay đứng, mình cúi đầu đảnh lễ dưới chân. Đó gọi là dùng thân.

Dùng miệng nghĩa là khi đương sự ở từ xa, mình chắp tay, cúi đầu nói: “Xin chào ngài”. Đó gọi là dùng miệng.

Dùng tâm nghĩa là khi đương sự quay lưng đi, mình chắp tay tỏ thái độ cung kính. Đó gọi là dùng tâm bày tỏ sự cung kính.

Nếu thấy Thượng Tọa đến mà không đứng dậy đón rước chào hỏi cung kính, thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là phép tôn kính Thượng tọa.

Kệ tóm tắt:

“Cử tội và trị tội,
Đuổi đi cùng Biệt trụ.
Người xử đoán, ruộng đất,
Làm phòng, cho năm năm.
Giường nệm, phép cung kính,
Đó là phẩm thứ ba”.