LUẬT MA HA TĂNG KỲ
GIỚI BA-DẠ-ĐỀ
NÓI RÕ phần thứ tư của CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ĐƠN ĐỀ.
23. GIỚI: KHÔNG BẠCH TỈ-KHEO KHÁC TẠI CHÙA NI.
Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các trưởng lão Tỷ kheo theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhóm sáu Tỷ kheo liền suy nghĩ: “Các trưởng lão Tỷ kheo theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhưng chúng ta thì không được đi. Vậy ta hãy đi trước đến giáo giới Tỷ kheo ni”. Lúc ấy có người nói: “Đức Thế Tôn chế giới: Tăng không sai thì không được giáo giới Tỷ kheo ni”.
Nhóm sáu Tỷ kheo nói: “Chúng tôi biết làm pháp yết ma”, bèn đem nhau ra khỏi cương giới làm pháp yết ma đề cử nhau theo thứ tự, rồi đi đến tinh xá Tỷ kheo ni, nói như sau: “Này các chị em hãy tập trung ni chúng lại trong sự hòa hợp để tôi dạy bảo”.
Lúc ấy nhóm sáu Tỷ kheo ni liền nhanh chóng tập họp lại, nhưng trong ni chúng có người biết pháp nói như sau: “Ai mà chịu nhận sự giáo giới của các kẻ làm trái giới luật”. Thế rồi nhóm sáu Tỷ kheo ni bèn tự ý tập họp lại bàn chuyện thế tục, xong rồi liền giải tán.
Khi đến giờ đi giáo giới, tôn giả Nan Đà bèn khoác y, đi đến tinh xá Tỷ kheo ni, nói như sau: “Các Tỷ kheo ni hãy tập họp hết lại, tôi sẽ giáo giới”. Lúc ấy các thiện Tỷ kheo ni liền tập trung lại trong sự hòa hợp, nhưng nhóm sáu Tỷ kheo ni thì không đến. Nan Đà bèn hỏi: “Chúng Tỷ kheo ni đã hòa hợp chưa?”.
—Chưa.
—Ai không đến?
—Nhóm sáu Tỷ kheo ni không đến.
Ni chúng cho sứ giả đi gọi, nhưng họ vẫn không đến, mà còn nói như sau: “Trước đây chúng tôi đã nhận sự dạy bảo của nhóm sáu Tỷ kheo rồi”.
Nan Đà nói: “Ni chúng không hòa hợp thì không được giáo giới”. Nói xong liền trở về tinh xá, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: “Ông đã giáo giới Tỷ kheo ni xong rồi sao?”. Nan Đà bèn đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi lại sự việc trên: “Các ông có việc đó thật chăng?”.
—Có thật bạch Thế Tôn.
—Này nhóm sáu Tỷ kheo! Vì sao Tăng không sai mà giáo giới Tỷ kheo ni?
—Chúng con đã nhận sự sai bảo xong rồi.
—Này những kẻ ngu si! Ai sai bảo các ông?
—Chúng con ra ngoài đại giới (làm yết ma) tự sai (đề cử) lẫn nhau.
—Từ nay trở đi ta không cho phép ra ngoài đại giới (làm yết ma) sai bảo nhau đi đến tinh xá Tỷ kheo ni.
Lại nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá Vệ, Đại Ái Đạo Cù Đàm Di lâm bệnh, tôn giả A Nan đến viếng thăm, hỏi rằng: “Thân thể thế nào, bệnh có giảm không? Không tăng thêm đấy chứ?”.
—Thưa tôn giả, bệnh hoạn khổ sở không thuyên giảm; lành thay mong tôn giả hãy thuyết pháp cho tôi nghe.
—Đức Thế Tôn chế giới: không bạch với các Tỷ kheo trong đại giới thì không được thuyết pháp cho Tỷ kheo ni.
—Hòa nam (mô Phật).
—Mong ni sư được an ổn.
Nói thế xong, tôn giả liền trở về, đến thẳng chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi A nan. A nan bèn đem sự việc kể trên bạch đầy đủ với Thế Tôn.
Phật nói: “Nếu ông thuyết pháp cho bà ấy nghe thì bệnh của bà ấy sẽ bớt, thân thể sẽ được an lạc. Từ nay về sau Ta cho phép thuyết pháp cho Tỷ kheo ni đang lâm bệnh”. Thế rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
“Nếu Tỷ kheo đến trú sứ của Tỷ kheo ni, muốn giáo giới, thấy có Tỷ kheo khác mà không bạch—ngoại trừ lúc khacù—thì phạm Ba dạ đề”.
Giải thích
Lúc khác: Tức là lúc lâm bệnh.
Giáo: Dạy bảo.
Có Tỷ kheo: Tỷ kheo đang có mặt tại trú xứ đó không phải Tỷ kheo quen biết.
Không bạch: Nếu nói: “Tôi vào thôn xóm phi thời”, hoặc nói: “Tôi rời bỏ người cùng ăn chung (?)”, thì không gọi là bạch.
Bạch: Phải nói như thế này: “Xin trưởng lão ghi nhớ cho, tôi vào tinh xá Tỷ kheo ni để giáo giới”. Người kia nên đáp: “Chớ phóng dật”.
Trừ lúc khác: Lúc khác là lúc Tỷ kheo ni bị bệnh, thì Thế Tôn cho phép giáo giới mà không có tội
Ba dạ đề: Như trên đã nói.
Nếu hai Tỷ kheo đang sống tại nơi hoang vắng mà một người muốn vào tinh xá Tỷ kheo ni thì phải bạch với người thứ hai như sau: “Xin trưởng lão ghi nhớ cho, tôi vào tinh xá Tỷ kheo ni để giáo giới”. Người kia nên nói: “Chớ phóng dật”. Người nọ đáp: “Xin cúi đầu vâng lời”.
Nếu cả hai người muốn đi thì nên bạch với nhau rồi mới đi. Nếu một người đi rồi, người còn lại muốn đi thì suy nghĩ thế này: “Nếu đi giữa đường gặp Tỷ kheo, tôi sẽ bạch, hoặc vào thôn xóm thấy Tỷ kheo tôi sẽ bạch”. Khi tới cổng tinh xá Tỷ kheo ni, không nên vào liền, mà nên hỏi xem có Tỷ kheo trong đó hay không đã. Nếu có thì mời họ ra tác bạch, bạch xong rồi mới vào. Nếu không bạch mà bước một chân vào khỏi cổng thì phạm tội Việt tì ni. Nếu cả hai chân đã vào khỏi cổng thì phạm tội Ba dạ đề.
Nếu Tỷ kheo ni mời Tỷ kheo đến thọ trai, thì vị Thượng tọa trong chúng nên bạch như sau: “Vào trú xứ Tỷ kheo ni để giáo giới”. Nếu Thượng tọa đệ nhất không rành đối đáp, thì đệ nhị Thượng tọa nên bạch. Nếu chư Tăng đã vào ngồi (tại trú của ni), rồi Tỷ kheo ni đến hỏi việc này việc khác, mà trong chúng có Tỷ kheo trẻ có biện tài đối đáp, thuyết pháp ngay khi ấy, thì không có tội.
Nếu Tỷ kheo, Tỷ kheo ni ở hai phòng gần nhau, rồi Tỷ kheo tán tụng nho nhỏ mà Tỷ kheo ni cách tường nghe được bèn hỏi: “Tôn giả nào tán tụng vậy?”.
—Tôi tán đấy.
—Tôn giả tán tụng hay thật.
—Cô muốn nghe lại không?
—Muốn nghe.
Thế rồi, Tỷ kheo liền tán tụng, thì phạm tội Ba dạ đề.
Nhưng nếu Tỷ kheo ni bị bệnh mà Tỷ kheo tán tụng (kinh chú) thì không có tội. Nếu Tỷ kheo ni ấy chết, rồi đệ tử của Tỷ kheo ni bảo Tỷ kheo rằng thầy mình đã chết, thì Tỷ kheo nên dừng lại.
Nếu tán tụng về lý vô thường cho cô ấy thì phạm Ba dạ đề.
Nếu Tỷ kheo ni đảnh lễ dưới chân Tỷ kheo rồi Tỷ kheo chú nguyện rằng: “Mong cô dứt hết đau khổ,được giải thoát “, thì phạm tội Ba dạ đề; chỉ nên nói: “Lành thay cô đã đến!”. Thế nên nói (như trên).