LUẬT MA HA TĂNG KỲ

GIỚI BA-DẠ-ĐỀ

NÓI RÕ PHẦN THỨ 6 CỦA 92 PHÁP ĐƠN ĐỀ.

48. GIỚI: CHỨA CHẤP SA-DI BỊ ĐUỔI.

Khi Phật an trú tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, A Lợi Tra có một Sa di tự là Pháp Dữ, nói như sau: “Này trưởng lão! Theo tôi biết pháp do đức Như Lai thuyết giảng, Ngài nói dâm dục làm chướng đạo, nhưng khi thực hiện sự dâm dục thì không có gì là chướng đạo”.

Lúc ấy, các Tỉ kheo liền nói: “Này Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn là không tốt. Ngươi không khéo ghi nhớ lời dạy của Thế Tôn, vì thực hiện sự dâm dục quả thật là chướng đạo”. Can gián một lần, hai lần, ba lần mà Sa di ấy vẫn không chấm dứt, nên các Tỉ kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.

Phật nói với các Tỉ kheo:—Nếu Sa di Pháp Dữ ấy nói rằng: “Theo tôi hiểu pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói sự dâm dục làm chướng đạo, nhưng khi thực hiện dâm dục không có gì là chướng đạo”, thì các ông nên can gián ở chỗ vắng ba lần, can gián ở chỗ nhiều người ba lần và can gián ở giữa chúng Tăng ba lần, khiến cho bỏ việc ấy.

Ở chỗ vắng nên hỏi: “Này Sa di, có thật ngươi nói như sau:—Theo tôi biết, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói hành dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành dâm dục không có gì là chướng đạo. Rồi ngươi đã được can gián ba lần mà không chấm dứt phải không?”.

Nếu ông ta đáp: “Đúng như vậy”, thì bấy giờ nên can gián ở chỗ vắng: “Này Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn là điều bất thiện. Ngươi không khéo ghi nhớ lời dạy của Thế Tôn, hành dâm dục quả thật là chướng đạo. Nay ta vì lòng từ can gián ngươi là muốn cho ngươi được lợi ích. Vậy ngươi nên nghe lời ta. Một lần can gián đã xong còn hai lần can gián nữa, ngươi có bỏ việc đó chăng?”.

Nếu không bỏ, thì nên can gián đến lần thứ hai, thứ ba cũng như thế. Khi can gián ở chỗ nhiều người cũng như vậy. Nếu vẫn không bỏ thì nên làm yết ma cầu thính ở giữa Tăng như sau:

—Xin đại đức Tăng lắng nghe! Ông Sa di Pháp Dữ này nói như sau: “Theo tôi hiểu, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói rằng dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi thực hiện dâm dục không có gì là chướng đạo”. Thế rồi, đã được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng nên can gián ba lần khiến cho ông bỏ việc ấy.

Lúc bấy giờ, nên hỏi giữa Tăng: “Sa di, có thật ngươi nói như sau:—Theo tôi hiểu, pháp do Như Lai thuyết giảng, Ngài nói rằng dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành dâm không có gì là chướng đạo. Rồi đã được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà không bỏ phải không?”

Nếu ông đáp: “Đúng như vậy”, thì ở giữa Tăng nên can gián như sau: “Này Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn là điều bất thiện. Ngươi không khéo ghi nhớ, chứ hành dâm dục quả thực là chướng đạo. Chúng Tăng vì lòng từ can gián ngươi, là muốn ngươi được lợi ích, vậy ngươi nên ghi nhận lời dạy của Tăng. Một lần can gián đã qua còn hai lần can gián nữa, ngươi nên bỏ việc ấy đi”.

Nếu ông không bỏ thì lần thứ hai, thứ ba cũng can gián như vậy. Thế nhưng, ông vẫn không bỏ. Do vậy, các Tỉ kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ kheo: “Nếu Sa di Pháp Dữ ấy nói như sau: “Đức Thế Tôn nói dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng theo tôi biết hành dâm dục không có gì là chướng đạo”. Rồi được can gián ở chỗ vắng ba lần, can gián ở chỗ nhiều người ba lần và ở giữa chúng Tăng ba lần, mà vẫn không bỏ, thì nên đuổi y ra khỏi đại chúng”.

Thế nhưng, sau khi bị đuổi đi, Pháp Dữ liền đến chỗ nhóm sáu Tỉ kheo. Nhóm sáu Tỉ kheo thấy ông, bèn tán thán: “Lành thay ông đến đây”, rồi cho nước uống phi thời, chỉ phòng ở, đưa giường nệm ngọa cụ, đưa y bát, thuốc bổ. Sa di được cung cấp các vật dụng ấy rồi, liền đi đến cổng tinh xá Kỳ Hoàn, nói với các Tỉ kheo: “Này các trưởng lão, các ngài đuổi tôi ra khỏi Tăng chúng, tưởng rằng tôi sẽ không có được chỗ ở, nhưng nay tôi lại được ở chung với bậc phạm hạnh, ngài còn cho tôi phòng xá, giường nệm, ngọa cụ, cùng chia xẻ với tôi thức ăn chánh pháp và thức ăn vật chất, cho tôi y bát và thuốc bổ. Này các trưởng lão, các ngài càng đuổi tôi chóng, thì tôi càng chóng được sống an lạc như vậy đó!”.

Các Tỉ kheo nghe ông nói như thế, lòng không vui bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ kheo đến.

Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: “Các ông có việc đó thật như vậy chăng?”

Đáp: “Có thật như vậy, bạch Thế Tôn”.

—Đó là việc xấu. Vì sao các ông đã biết Sa di có ác kiến không bỏ, chúng Tăng đã như pháp trục xuất mà còn cho sống chung, chia xẻ thức ăn chánh pháp và thức ăn vật chất? Đó là điều phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.

Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

—Nếu Sa di nói như thế này: “Theo tôi biết, đức Như Lai nói rằng dâm dục là pháp chướng đạo, nhưng khi hành dâm dục không có gì là chướng đạo”, thì các Tỉ kheo nên can gián Sa di ấy như sau: “Này Sa di, ngươi chớ hủy báng Thế Tôn; hủy báng Thế Tôn là hành vi bất thiện. Thế Tôn nói hành dâm dục quả thật là chướng đạo. Ngươi hãy bỏ ác kiến ấy đi”. Khi các Tỉ kheo can gián Sa di ấy mà ông vẫn cố tình không bỏ, thì nên can gián lần thứ hai, thứ ba cũng như vậy. Nếu ông bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì các Tỉ kheo nên nói như sau: “Từ nay trở đi, ngươi không được nói Phật là thầy của tôi, cũng không được ngủ chung với Tỉ kheo ba đêm. Ngươi đi đi, không được ở đây”.

Nếu Tỉ kheo biết Sa di không bỏ ác kiến, bị khu xuất, chưa giải tỏa pháp yết ma, mà dụ dỗ, nuôi dưỡng, cùng ăn chung, ở chung một phòng thì phạm Ba dạ đề.

Giải thích

Sa di: Như Sa di Pháp Dữ..

(Một số từ ngữ khác đã được giải thích trong các giới trước).

Khu xuất: Đuổi ra khỏi Tăng già lam.

Chưa làm như pháp: Như trên đã giải thích.

Nuôi: Cho y chỉ (cho phép nương tựa).

Dưỡng: cho y bát, thuốc chữa bệnh.

(Một số từ ngữ khác đã được giải thích ở các giới trên).

Nếu Sa di bị Hòa Thượng, A xà lê khiển trách thì Tỉ kheo không được dụ dỗ gọi về cùng ở chung, nói rằng: “Ta sẽ cho ngươi y bát, thuốc men, sẽ dạy kinh cho ngươi”.

Nếu biết Sa di ấy nhân việc đó sẽ hoàn tục thì có thể nhỏ nhẹ dỗ dành, rồi nói với ông Ta: “Ân đức của Hòa thượng, A xà lê rất nặng, khó mà báo đáp. Ngươi nên trở về sống thân cận với ngài”.

Nếu (Sa di) bị đuổi mà tưởng không bị đuổi (rồi đem về nuôi), thì phạm tội Việt tì ni.

Nếu không bị đuổi mà tưởng bị đuổi (rồi đem về nuôi), thì phạm tội Việt tì ni.

Nếu bị đuổi và tưởng là bị đuổi (mà đem về nuôi), thì phạm Ba dạ đề.

Nếu không bị đuổi và tưởng không bị đuổi (mà đem về nuôi), thì không có tội.

Thế nên nói (như trên).